Hỏi Đáp

Danh sách linh vật của Việt Nam (Tổng hợp mới nhất) | Địa Lý Lạc Việt

Linh vật chim lạc

Con chim lạc là vật tổ của cư dân East Mountain. Vào thời kỳ đầu của Văn Lang-Ô Lệ Châu, những cư dân cổ của Việt Nam (những người sáng tạo ra nền văn hóa Đông Sơn) đã định cư và hình thành một cộng đồng dân tộc-tộc người vững chắc.

Lúc này, ý thức dân tộc đã nảy sinh và hình thành, người Việt cổ bắt đầu xây dựng những truyền thuyết về tổ tiên và cội nguồn dân tộc thông qua tín ngưỡng thờ vật tổ.

Bạn đang xem: Linh vat cua viet nam la gi

Linh vật Chim Hạc trên trống đồng

Hình Chim Lạc trên trống đồng Thọ Vực (Văn hóa Đông Sơn), khoảng 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay.

Linh vật Giao Long

Rồng là vật tổ có hình dạng giống cá sấu, là vật tổ trong thời kỳ đầu của nhà nước Wenlang-Shan, tượng trưng cho sức mạnh của cư dân Đông Sơn.

Hình Giao Long trên giáo đồng

Hình Giao Long trang trí trên giáo đồng (Văn hóa Đông Sơn), khoảng 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay.
Hình giao long trang trí trên tấm che ngực
Hình Giao Long trang trí trên tấm che ngực bằng đồng, thời kỳ Đông Sơn.

Linh vật Rùa

Rùa là con vật được hiến dâng chân chính, là biểu tượng của sự bền vững và trường tồn. Vì vậy, rùa thường được tạc dưới dạng bia và bảo tháp. Ngoài ra, rùa còn được trang trí trên các vật phẩm tượng trưng cho sự trường thọ của chủ nhân.

Từ cuối thời Lê trung hưng (thế kỷ 17 đến thế kỷ 18), rùa thường được ghép với ngựa rồng trong chủ đề Hattu-Bữa sáng. Đây là cặp biểu tượng sơ khai trong Kinh dịch, tư tưởng triết học Á Đông về quy luật biến đổi. Ứng dụng vào vũ trụ, thiên văn, địa lý, phong thủy, quản lý tài nguyên nước, vận mệnh con người và nhiều lĩnh vực khác …

Tượng rùa trên ấn Quốc mẫu chi bảo

Tượng rùa trên ấn “Quốc mẫu chi bảo” làm bằng bạc và vàng, thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long thứ 1 (1802), trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Linh vật Rùa thời Nguyễn
Khai gốm hoa lam vẽ hình Long mã cõng Hà đồ (trái) và Thần quy chở Lạc thư (phải) thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802 – 1920).

Linh vật Long Mã

Mã dài theo chữ Hán cổ:

  • Chủ đề rồng và hà mã liên quan đến truyền thuyết về một vị vua đang hồi phục sau khi đi dạo trên sông Hoàng Hà, khi ông nhìn thấy một con rồng đang bơi về phía mình với những vòng xoáy đen trắng trên lưng. Vì vậy, nhà vua đã vẽ lại thành phố Hedu, còn được gọi là bản đồ của Tiantian Bagui.
  • Chủ đề của than quy lac thu bắt nguồn từ câu chuyện về vua Dawu, người trị vì sông nước và nhìn thấy một con rùa trên lưng của mình. Các chấm đen và trắng. Theo đó, nhà vua đã tạo ra những bức thư huyền thoại hay còn gọi là Bát quái của ngày mốt.

Tuy nhiên, căn cứ vào công trình nghiên cứu của thiên thần-nguyên vũ tuấn anh, việc đính chính như sau:

  • Tin đồn bẩm sinh trộn lẫn với sơ đồ mặt bằng.
  • Những câu chuyện phiếm về thần áp phích xen lẫn với Hatu.

Long Mã - Hà đồ trên hũ gốm hoa lam

Hình Long Mã – Hà đồ trên hũ gốm hoa lam. Thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802 – 1920).
Tượng long mã bằng đồng thời Nguyễn,
Tượng Long Mã bằng đồng thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.

Linh vật Ngựa có cánh

Pegasus là ngựa thần trong văn hóa phương Tây, là biểu tượng của trí tuệ và sự thông thái. Pegasus du nhập vào Việt Nam từ đầu thời Lê (thế kỷ 15), xuất khẩu đồ gốm thông qua đơn đặt hàng của các thương nhân phương Tây, và tiếp tục được sử dụng để trang trí kiến ​​trúc và đồ gốm thời Lê. trung hưng (thế kỷ 16-18).

Linh vật ngựa có cánh

Hình Ngựa có cánh trên gạch trang trí. Đất nung. Thời Mạc, thế kỷ 16.
Hình ngựa có cánh trên bình gốm hoa lam thời Lê sơ
Hình ngựa có cánh trên bình gốm hoa lam thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.

Linh vật Phượng Hoàng

Tương truyền, phượng hoàng là chúa tể của các loài chim, mang nhiều đức tính cao quý. Phượng hoàng chỉ xuất hiện trong thời bình và ẩn hiện trong thời loạn lạc, vì vậy nó là biểu tượng của hòa bình và thịnh vượng.

Ngoài ra, phượng hoàng còn là biểu tượng của các hoàng thái hậu, hoàng hậu, công chúa và các cung tần mỹ nữ trong thời đại phong kiến. Ở Việt Nam, phượng hoàng là một chủ đề trang trí phổ biến ở Trung Quốc cổ đại và hiện đại cũng như nước ngoài.

Lá đề hình phượng bằng đất nung thời Lý

Lá đề hình phượng bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 – 13.
Hình phượng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê sơ
Hình phượng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Cặp phượng chầu bằng gỗ thời Lê Trung Hưng
Cặp phượng chầu bằng gỗ, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.
Hình phượng trang trí trên hộp trầu bằng vàng thời Nguyễn
Hình Phượng trang trí trên hộp trầu. Vàng. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20 (Sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn)
Hình chim phượng trang trí trên lống ấp vàng thời Nguyễn
Hình chim phượng trang trí trên lống ấp vàng thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.

Linh vật Cá hóa Rồng

Câu cá rồng là truyền thuyết gắn liền với truyền thuyết “vũ nữ đánh cá” trong các trường đại học Nho giáo, tượng trưng cho sự kiên trì, bền bỉ để vươn tới thành công chinh phục tri thức.

Trong mỹ thuật Việt Nam, đề tài câu cá hóa rồng đã có từ thời Trái đất (thế kỷ 13-14), nhưng được phổ biến và đạt đến đỉnh cao nghệ thuật vào thời kỳ đầu (thế kỷ 15). ..

Cá hoá rồng thời Lê Sơ

Hình Cá hóa Rồng trên đĩa gốm nhiều màu. Thời Lê sơ, thế kỷ 15 (Hiện vật tàu đắm cổ Cù Lao Chàm, Quảng Nam)

Linh vật Rồng

Trong Con rồng thứ 9, chúng ta đã biết tất cả về truyền thuyết rồng và sinh vật Con rồng là gì.

Hình tượng con rồng đã có từ thời Van Ron-Ole lập quốc và trở thành biểu tượng thiêng liêng gắn liền với cội nguồn tổ tiên, dân tộc qua truyền thuyết “Con rồng cháu tiên”.

Mặt khác, do nằm ở nơi khai sinh ra nền văn minh lúa nước nên con rồng Việt Nam còn có vai trò phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Trong quá trình phát triển hơn 2.000 năm, hình tượng rồng trong mỹ thuật Việt Nam đã nhiều lần thay đổi về phong cách và đặc điểm nghệ thuật, đồng thời mang những ý nghĩa biểu tượng mới liên quan đến thần quyền và vương quyền. ..

Hình rồng trang trí trên gương đồng

Hình rồng trang trí trên gương đồng, thế kỷ 1-3. Hiện vật khai quật tại Thiệu Dương, Thanh Hóa.
Hình rồng chạm trên đổ cửa bằng đá thời Lý
Hình rồng chạm trên đổ cửa bằng đá thời Lý, niên hiệu Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057), chùa Phật Tích, Tiên Du, Bắc Ninh.
rồng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê Sơ
Hình rồng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Hình rồng đắp nổi trên lư hương thời Lê
Hình rồng đắp nổi trên lư hương bằng đất nung, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.
Tượng rồng bằng vàng thời Nguyễn
Tượng rồng bằng vàng thời Nguyễn, thế kỷ 19-20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Tượng rồng trên ấn Đại Nam hiệp kỷ lịch chi bảo
Tượng rồng trên ấn “Đại Nam hiệp kỷ lịch chi bảo” bằng vàng, thời Nguyễn, niên hiệu Thiệu Trị 7 (1847), nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.

Linh vật Nhai Tí

Theo truyền thuyết, Nhai là con của rồng, ngoại hình giống rồng, đầu sói, tính tình hung dữ, hung dữ và thích đánh nhau. Vì vậy, nhai thường được trang trí bằng các chấm bi, hậu, kiếm khâu, gươm… ngụ ý thanh thế, tăng thêm sức mạnh và lòng dũng cảm của các chiến binh khi ra trận.

Nhai Tí trên kiếm thời Nguyễn

Hình Nhai Tí trang trí trên đốc kiếm. Vàng, kim loại, đá quý. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20. (Sưu tập cổ vật Cung đình triều Nguyễn).

Linh vật Tù Ngưu

Con bò là một trong những đứa con của rồng. Theo truyền thuyết, con bò là linh vật, đam mê âm nhạc, thích chơi đàn pipa và đã đạt được nhiều thành tựu trong âm nhạc. Vì vậy, người xưa quen làm hình con bò trên đầu đàn.

Linh vật Tù Ngưu Việt Nam

Hình Tù Ngưu trên cây đàn

Linh vật Si Vẫn

si vẫn là một trong những đứa con của rồng. Theo truyền thuyết, Si vẫn là một loài động vật biển có chiếc đuôi tròn có thể đánh được sóng. Vì vậy, người xưa thường đặt nó trên nóc các công trình kiến ​​trúc, mang ý nghĩa phòng chống cháy nổ. Ở Việt Nam, si vẫn được biết đến với tên gọi chung là cây đàn kìm, có nhiều dạng khác nhau: hình đầu rồng, hình rồng; hình cá, đuôi cá đầu rồng; hình đuôi bằng lụa, hình đầu rồng bằng lụa …

Linh vật Si Vẫn thời Lê Sơ

Si Vẫn hình đầu Rồng (Long Vẫn). Đá. Thời Lê Sơ, thế kỷ 15. (Thái miếu nhà Lê ở Lam Kinh, Thanh Hóa)
Tượng si vẫn bằng đất nung thời Lê Trung Hưng
Tượng si vẫn (con kìm) bằng đất nung thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.
Tượng Si Vẫn chống hoả hoạn Địa Lý Lạc Việt
Hình ảnh tượng Si Vẫn chống hoả hoạn, phiên bản bàn đặt trong nhà được Chuyên gia Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Người sáng lập Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương) sáng tạo ra.

Linh vật Bồ Lao

Các vị Bồ tát cũng là con trai của rồng. Theo truyền thuyết, chim bồ câu là một loài động vật biển thích âm thanh lớn và gầm. Chim bồ câu rất sợ Orcas và kêu rất to khi bị Orcas đuổi theo. Trước đây, khi đúc chuông, cán thường làm hình chim bồ câu, cán dùi hình quả cầu để tiếng chuông vang xa. Vì vậy, “Bodhi” còn dùng để chỉ những chiếc chuông của chùa. Ở Việt Nam thường thấy cây bồ đề có hình dáng giống rồng hai đầu.

Bồ Lao trên quai chuông chùa Vân Bản

Bồ lao trên quai chuông chùa Vân Bản (Hải Phòng). Đồng. Thời Trần, thế kỷ 13 – 14.

Linh vật Thao Thiết

tao là một trong những đứa con của rồng. Theo truyền thuyết, cà vạt là một kẻ háu ăn vô độ, thậm chí có thể ăn thịt chính cơ thể của mình. Vì vậy, hình ảnh chỉ có đầu, và hai chân trước trông rất dữ tợn và oai vệ. Ban đầu, dụng cụ thể thao được trang trí trên dao kéo như một lời nhắc nhở về cách cư xử lịch sự khi ăn uống. Sau đó, thiết kế chuyển động xuất hiện trên nhiều hạng mục khác, tượng trưng cho sự no lâu và bền vững.

Linh vật Thao Thiết

Hình Thao thiết trên đồ cúng tế. Ngọc. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20. (Sưu tập cổ vật Cung đình triều Nguyễn)
Hình Thao Thiết đúc nổi trên tai thạp đồng
Hình thao thiết đúc nổi trên tai thạp đồng, khoảng thế kỷ 2 TCN – 2 SCN.

Linh vật Tiêu Đồ

tieu do là con thứ chín của rồng. Theo truyền thuyết, Xiao Duo là một linh vật, tính tình lười biếng, thường cuộn mình ngủ, không thích người lạ xâm phạm lãnh thổ của mình. Do đó, do thường được chạm vào tay nắm cửa, hàm ý răn đe những kẻ lạ mặt muốn xâm nhập, giữ an toàn cho gia chủ. Ở Việt Nam, hình ảnh ông tiều chỉ xuất hiện trên các tay nắm cửa bằng đồng từ thế kỷ 1 – 3.

Tay nắm cửa hình Tiêu Đồ

Tay nắm cửa hình Tiêu Đồ. Đồng, thế kỷ 1 – 3.

Linh vật Kỳ Lân (Lân)

Kỳ lân là con của rồng. Con vật này về cơ bản là sự kết hợp của rồng và hươu / ngựa. Giáp đầu giống rồng, móng vuốt thân giống hươu.

Theo truyền thuyết, kỳ lân là linh vật tượng trưng cho lòng nhân ái, mỗi khi xuất hiện là điềm báo về sự ra đời của một vị thánh hay một vị vua. Ở Việt Nam, hình tượng kỳ lân trở nên phổ biến từ những ngày đầu thời Lê (thế kỷ 15), khi Nho giáo đạt đến đỉnh cao.

Hình dạng của kỳ lân, mặc dù không hoàn toàn tuân theo các nguyên tắc thần thoại, nhưng là đặc điểm nhận dạng cơ bản của cơ thể động vật móng guốc phủ đầy vảy cá.

Trong đời sống dân gian thường nhầm lẫn giữa kỳ lân và sư tử, nhiều hình tượng sư tử còn được gọi là kỳ lân. Tuy nhiên, theo các điển tích của triều Lê và triều Nguyễn, hoành phi và sư tử rất khác biệt về hình thức và biểu tượng. Vì vậy, đẳng cấp của lân luôn cao hơn sư tử. Trong thời đại Ewha, kỳ lân đại diện cho hoàng tử, hoàng tử; sư tử đại diện cho võ thuật quan trọng nhất và thấp kém nhất. Vào thời nhà Nguyễn, kylins tương ứng với sĩ quan quân đội hạng nhất, và sư tử tương ứng với sĩ quan quân đội hạng ba. Đặc biệt, kỳ lân là một trong tứ linh rồng, lân, rùa, phượng.

Hình kỳ lân trang trí trên đĩa thời Lê Sơ

Hình kỳ lân trang trí trên đĩa gốm nhiều màu thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
kỳ lân móng rồng trên hũ gốm hoa lam thời Lê Sơ
Hình kỳ lân móng rồng trên hũ gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Tượng kỳ lân trên ấn Đề thống tướng quân
Tượng kỳ lân trên ấn “Đề thống tướng quân” bằng đồng thời Lê sơ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1515).
Linh vật Kỳ Lân trên bia điện Nam Giáo
Hình Kỳ Lân trên bia điện Nam Giao. Đá. Thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Vĩnh Trị 5 (1679)
Tượng kỳ lân bằng gỗ thời Nguyễn
Tượng kỳ lân bằng gỗ dùng để trang trí kiến trúc thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.

Linh vật Nghê

Sư tử vốn là linh vật Phật giáo, du nhập vào Việt Nam theo Phật giáo nhưng đã được cải biên theo truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc.

Từ thời đại thổ nhưỡng (thế kỷ 13 – 14), Nho giáo phát triển, sư tử được chọn làm biểu tượng của vương quyền, hình tượng sư tử xuất hiện trong nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, vừa đa dạng về đường nét trang trọng vừa chuyển tải nhiều điều tốt đẹp khác nhau. tính tượng trưng.

Có hai loại đặc điểm định hình cơ bản:

  • Hình Sư Tử (chi tiết thân sư tử): Xuất hiện ở nhiều thời đại và nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau.
  • Kết hợp với đặc điểm sư tử – khuyển (đầu sư tử, thân chó): Xuất hiện ít nhất từ ​​đầu thế kỷ XV, chủ yếu dùng làm vật tế thần, trang trí kiến ​​trúc hoặc làm linh vật hộ mệnh …

Giống như các nước châu Á khác, ở Việt Nam, sư tử còn được gọi là nghệ (toan nghe).

  • Ở Trung Quốc và Nhật Bản: Sư tử được gọi là nghê khi nó được tạc vào bệ tượng Phật và là vật cưỡi của Văn Thù, đeo lư hương hoặc ngồi trên trầm hương, mặc dù cả hai đều tạo hình sư tử. .
  • Việt Nam: Tình hình khá phức tạp.

– Linh vật này được gọi là Sư tử khi nó được tạo ra dưới hình dạng một con sư tử.

– Linh vật này được gọi là nghê vì sự kết hợp giữa sư tử và chó.

Tuy nhiên, những hình sư tử được trang trí hoặc thờ cúng thường còn được gọi là nghê hoặc kỳ lân. Linh vật hình sư tử, con chó, thường được gọi là nghê trong dân gian, nhưng vẫn được gọi là sư tử trong các tài liệu chính thống ghi lại hiện vật này. Bệ tượng Phật hình sư tử thường được gọi là “sư tử ngồi”, có khi còn được gọi là “Niếp”, dân gian thường gọi là ông Sấm.

Hình ảnh con sư tử – nghê được giới thiệu trong bài viết này, tên chữ là sư tử là để chỉ một linh vật có hình dáng giống sư tử, còn gọi là nghê khi linh vật có hình dáng giống chó phốc. Hình ảnh của sư tử được gọi theo một số cách khác nhau, và tiêu đề sẽ đặt tên chính thức / phổ biến đầu tiên, cũng như các tên dân gian thông thường khác.

Nghê trên nắp đỉnh trầm thời Lê

Hình Sư tử /Nghê gắn trên nắp đỉnh trầm làm bằng gốm mem rạn thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736).
Nghê chầu bằng gỗ sơn thiếp thời Lê
Tượng Sư tử /Nghê chầu bằng gỗ sơn thiếp, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.
Tượng nghê bằng đất nung thời Lê
Tượng nghê bằng đất nung thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18, phát hiện tại An Lạc, Khoái Châu, Hưng Yên.
Tượng Nghê thời nhà Mạc
Tượng nghê chầu làm bằng gốm men trắng và lục dùng làm đồ thờ cúng (trái) và Bình rót có quai hình nghê làm bằng gốm men lam xám dùng để đựng nước, rượu cúng (phải) thời Mạc, thế kỷ 16.
Tượng Nghê bằng sành
Tượng Sư tử /Nghê bằng sành, thế kỷ 18 – 19. Dạng tượng này thường được gắn trên đầu hai trụ biểu các công trình kiến trúc cổ với chức năng trấn giữ, canh gác.
nghê chầu làm bằng gỗ sơn thiếp thời Nguyễn
Cặp Sư tử /Nghê chầu làm bằng gỗ sơn thiếp thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.
Sư tử trên ấn Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo
Tượng sư tử trên ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo” bằng vàng, thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709).
Sư tử trên ấn thời Nguyễn
Tượng sư tử trên các ấn làm bằng ngọc, cẩm thạch, thủy tinh thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Sư tử trên ấn bạc thời Nguyễn
Tượng Sư tử /Nghê trên các ấn làm bằng ngọc, cẩm thạch, thủy tinh thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
sư tử hí tiền trên bình gốm hoa lam thời Lê Sơ
Hình sư tử hí tiền trên bình gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15, hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.

Đề tài sư tử hí tiền, sư tử hí cầu bắt đầu xuất hiện từ thời Trần về sau, phổ biến và đạt tới đỉnh cao thời Lê Sơ. Là hình ảnh biểu trưng của sự thái bình thịnh trị. Đây vốn là ý nghĩa của kỳ lân, được gán ghép cho sư tử.

Tượng sư tử bằng đá cát của văn hóa Chămpa

Tượng sư tử bằng đá cát của văn hóa Chămpa, thế kỷ 10, khai quật tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam.
Tượng sư tử chầu bằng đất nung thời Lý
Tượng sư tử chầu bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 – 13.
Đầu sư tử bằng đất nung thời Lý
Đầu sư tử bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 – 13. Đây là vật trang trí kiến trúc hoặc làm đầu máng xối nước. Hình thức này xuất hiện phổ biến dưới thời Lý – Trần (thế kỷ 11 – 14).
Cổ bệ tượng Phật chạm hình sư tử chầu ngọc
Cổ bệ tượng Phật chạm hình sư tử chầu ngọc bằng đá, thời Lý, thế kỷ 11 – 13. Đây là một phần trong kết cấu bệ tượng Phật, ở vị trí đỡ tòa sen cho Đức Phật ngồi, mô phỏng theo Phật thoại về con Kim Nghê (Sư tử lông vàng) bảo vệ Phật pháp. Hình thức nghệ thuật này phổ biến dưới thời Lý – Trần (thế kỷ 11 – 14).

Linh vật Tích Tà

ác danh là một linh vật thần thoại có nguồn gốc từ châu Á, có hình dạng giống như một con sư tử có cánh. Đây là linh vật hộ mệnh, tượng trưng cho việc trừ tà, trừ tà, mang lại điều tốt lành.

Hình tượng tà thần xuất hiện trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam đầu Công nguyên, trên các đồ vật bằng đồng và gốm.

Đèn hình tích tà bằng đồng

Đèn hình Tích tà. Đồng. Thế kỷ 1 – 3

Linh vật Chim thần Garuda

Garuda là một vị thần chim có nguồn gốc từ Ấn Độ, thường được miêu tả dưới hình dạng một con chim của con người, tượng trưng cho quyền lực và sự thật.

Ở Việt Nam, Garuda xuất hiện trong nghệ thuật Chăm như một biểu tượng và vật cưỡi của thần Hindu, Chúa Vishnu. Trong mỹ thuật Phật giáo Đại Việt từ giai đoạn (thế kỷ 11 – 13) đến thời kỳ sa mạc (thế kỷ 16), thần Garuda là linh vật canh giữ góc tháp, nâng đỡ góc bàn thờ hoặc nóc chùa. .Hình ảnh tiêu biểu cho sự giao lưu văn hóa giữa Dayan và Việt Nam – Champa.

Chim thần Garuda ở Việt Nam

Garuda đỡ góc bệ thờ Chùa Thầy (Hà Nội). Đá. Thời Trần, thế kỷ 13 – 14.
Hình chim thần Garuda đất nung thời Lý
Hình chim thần Garuda trên mảnh tháp bằng đất nung, thời Lý, thế kỷ 11 – 13.

Linh vật Hổ

Ở Việt Nam, hổ mang chúa được coi là vua của rừng già. Vì vậy, con hổ được hiến để tượng trưng cho sức mạnh và quyền lực, giống như sư tử. Hổ thường được đặt ở cổng các công trình kiến ​​trúc cổ. Trong miếu mẹ thường có năm bàn thờ hổ, với năm màu vàng, xanh, trắng, đỏ và đen tượng trưng cho ngũ hành và trấn giữ năm phương.

Hổ đá ở văn miếu Hưng Yên

Cặp tượng Hổ. Đá. Thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18. (Văn Miếu Hưng Yên).

Linh vật Voi

Con voi là một linh vật Phật giáo tượng trưng cho chân lý, trí tuệ và sự kiên trì. Đức Phật cũng được tái sinh thành một con voi trắng trong giấc mơ của Hoàng hậu Maya. Con voi cũng là vật cưỡi của Bồ tát Phổ Độ.

Với ý nghĩa này, voi cũng xuất hiện trong nghệ thuật Phật giáo Việt Nam. Đồng thời, voi cũng là một loại linh vật, được đặt ở hai bên Thần đạo trước lăng mộ, hoặc có sức mạnh bảo vệ khi bái lạy trước cổng đình, miếu …

Tượng voi đội bình thời Lê

Voi cõng bình. Gốm men rạn. Thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.
Tượng voi làm bằng đá cát của văn hóa Chămpa.
Tượng voi làm bằng đá cát của văn hóa Chămpa, thế kỷ 10, khai quật tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam.

Linh vật Khỉ

Theo lời đối thoại của Đức Phật, con khỉ là một đệ tử rất chân thành của Đức Phật. Ở Việt Nam, nhiều tượng khỉ đã được tìm thấy ở khu di tích chùa Chương Sơn (Nam Định) ở thời ly.

Ba con khỉ: một con bịt mắt, con kia bịt miệng và con kia bịt tai, thể hiện triết lý ba không của đạo Phật: không đọc chữ xấu, không nói lời xấu và không nói những lời không hay. Nghe những lời không hay.

Tượng khỉ bịt tai thời Lý

Tượng Khỉ bịt tai trong bộ tượng “Khỉ Tam Không”. Đá. Thời Lý, thế kỷ 11- 13.(Tháp Chương Sơn, Ý Yên, Nam Định).

Linh vật Chó

Con chó là một linh vật gần gũi với đời sống tâm linh của người Việt Nam. Người Việt thường khắc chó đá trước nhà hoặc cổng nhà công, đền, miếu, phủ… để cầu may, trừ tà. Những con chó đá trong nhà của người dân thường nhỏ, không lớn như những con chó đá trong các công trình tôn giáo. Nhiều nơi còn có tục thờ chó.

Tượng chó bằng đá thời Lê

Tượng Chó. Đá. Thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.

Linh vật Rắn

Đối với người Việt Nam, con rắn là biểu tượng của thủy thần, đại diện cho hai yếu tố đối lập tốt và xấu. Tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt có tục thờ rắn, mang quan niệm sông nước của cư dân nông nghiệp.

Hình ảnh đôi rắn đan vào nhau là biểu tượng của sự sinh sôi, nảy nở, là biểu tượng của sự sống. Tuy nhiên, rắn dường như ít phổ biến hơn trong nghệ thuật tạo hình.

Trong văn hóa Chămpa, con rắn được gọi là Vua rắn được du nhập vào Ấn Độ giáo. Naga là anh em họ và là kẻ thù của loài chim thần Garuda. Vì vậy, rồng thường xuất hiện dưới hình dạng bị Garuda tiêu diệt.

Cặp tượng rắn đầu người thời Nguyễn

Tượng rắn đầu người. Gốm men trắng. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.

Linh vật Hạc

Con hạc là một linh vật của Đạo giáo, tượng trưng cho sự thanh khiết, thoát tục và bất tử.

Tuy nhiên, việc sử dụng hỗn hợp hình ảnh tôn giáo khá phổ biến ở Việt Nam. Vì vậy, hạc cũng trở thành biểu tượng của Phật giáo, văn hóa Nho giáo… Hạc thường được khắc họa đứng trên lưng rùa hoặc trên các tác phẩm điêu khắc đình làng với đề tài tiên nữ cưỡi hạc.

Đèn hình Hạc cưỡi Rùa thời Nguyễn

Đèn hình Hạc cưỡi Rùa. Đồng. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.
Phù điêu tiên cưỡi hạc bằng gỗ thời Lê Trung Hưng
Phù điêu tiên cưỡi hạc bằng gỗ thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.

Linh vật Uyên Ương

Theo tiếng nói của Đức Phật, uyen uuong (vịt) là một trong những hóa thân của Đức Phật. Trong mỹ thuật Việt Nam, uy nghiêm, tư thế dang rộng đôi cánh, ngự trên mái ngói, thường thấy trong trang trí kiến ​​trúc cung đình, chùa chiền, chùa thời ly-trần (thế kỷ 11 – 14).

Tượng uyên ương bằng đất nung thời Lý

Tượng uyên ương bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 – 13.

Mười hai con giáp

Ở Việt Nam, các cung hoàng đạo bao gồm chuột (ti), trâu (ngưu), hổ (gradu), mèo (mow), rồng (gầy), rắn (ti), ngựa (ngựa) , và con dê (mùi). , khỉ (thân), dậu (gà), khuyển (chó), lợn (lợn), tương ứng với mười hai chi của lịch phương Đông, dùng để tính thời gian theo vòng quay của mặt trăng. Cung hoàng đạo cũng được sử dụng để kết nối các yếu tố của vận mệnh và cuộc sống.

Tượng trâu bằng ngọc thời Nguyễn

Tượng Trâu (Sửu) trong bộ tượng 12 con Giáp. Ngọc. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20. (Sưu tập cổ vật Cung đình triều Nguyễn)

Linh vật Sấu

Con cá sấu, còn được gọi là “sóc” hoặc “cá sấu sóc”, xuất hiện trong nghệ thuật Việt Nam từ thời Lý và tiếp tục cho đến thời Chung Hing Lê (thế kỷ 17-18).

Con cá sấu có đầu của sư tử và đuôi của một con sóc. Ngoài đặc điểm hình ảnh và tính phổ biến thay đổi theo thời gian, đây là một linh vật khá ổn định cả về chức năng và ý nghĩa biểu tượng, thường xuất hiện trên các bậc thang trước các đền, tháp hoặc lăng tẩm. Nó cũng là một linh vật độc đáo trong nghệ thuật Việt Nam và chưa từng thấy trong bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào trên thế giới.

Sấu đá thời Lý

Sấu đá thời Lý – Hiện vật Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia
Sấu đá thời Trần
Sấu đá thời Trần – thành bậc tiền đường chùa Che – Phú Xuyên – Hà Nội

>>> Đọc thêm:

  • Một cách đơn giản để khắc phục đại dịch thuế kéo dài ba năm đến năm 2020
  • Xem ngày và giờ chính xác nhất vào năm 2020
  • đại dịch covid-19: Tham khảo Tổ tiên của tôi Phòng thủ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button