Hỏi Đáp

Văn hóa là gì? Đặc trưng, chức năng và vai trò của văn hóa?

Văn hóa là một thuật ngữ thường được nhắc đến và phổ biến, nhưng không phải ai cũng hiểu rõ khái niệm này để sử dụng nó một cách hợp lý.

1. Văn hóa là gì?

Trong quá trình đổi mới hệ thống, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, những tiền đề, điều kiện, môi trường, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới đối với văn hóa. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước về văn hóa cũng như vai trò của các thành phần trong xã hội đối với văn hóa đã tạo nên bước phát triển mới của văn hóa Việt Nam. Tóm tắt những kết quả đạt được, những mặt hạn chế, khuyết điểm của sự nghiệp phát triển văn hóa – được đánh giá chính thức trong các văn kiện của Đảng (nghị quyết đại hội đảng bộ, nghị quyết đại hội đảng bộ trung ương), nhà nước.

Bạn đang xem: đặc trưng của văn hóa là gì

Từ “văn hóa” có nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông thường để chỉ trình độ học vấn (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa), theo nghĩa cụ thể là chỉ trình độ phát triển của một thời kỳ (văn hóa Đông Sơn) … và theo nghĩa rộng ý thức, văn hóa Bao gồm mọi thứ, từ sản phẩm hiện đại tinh tế đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, sinh hoạt, làm việc …

Nhưng ngay cả với sự hiểu biết rộng rãi này, vẫn có hàng trăm định nghĩa khác nhau trên thế giới. Để định nghĩa một khái niệm, trước hết hãy xác định các đặc điểm cơ bản của nó. Đây là những đặc điểm riêng, tiêu biểu, cần và đủ để phân biệt khái niệm (sự vật) với khái niệm (sự vật) khác. Phân tích các phương pháp văn hóa đại chúng hiện nay (coi văn hóa như một tập hợp, hệ thống, giá trị, hoạt động, biểu tượng, thuộc tính nhân cách, thuộc tính xã hội, v.v.), có thể xác định 4 đặc trưng cơ bản, nghĩa là tổng hợp lại, chúng ta có thể đưa ra các văn hóa sau định nghĩa:

“Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy thông qua quá trình hoạt động và thực tiễn, trong mối quan hệ tương tác của con người với môi trường tự nhiên và xã hội”.

Văn hóa có nhiều định nghĩa khác nhau. Theo UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt động và sáng tạo, trong quá khứ và hiện tại. Qua nhiều thế kỷ, hoạt động sáng tạo này đã hình thành nên một hệ thống giá trị, truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định mỗi nét độc đáo của một dân tộc. Định nghĩa này nhấn mạnh, hoạt động sáng tạo của cộng đồng người liên quan đến quá trình phát triển lịch sử lâu dài của mỗi cộng đồng, tạo nên những giá trị nhân văn phổ quát, đồng thời mang tính đặc thù của mỗi cộng đồng và bản sắc riêng của mỗi dân tộc. >

Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào định nghĩa chung này, chúng ta dễ hiểu nhầm trong quản lý văn hóa trong nước: quản lý văn hóa là quản lý các hoạt động, sáng tạo hơn và hẹp hơn là quản lý các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Thực tế, quản lý văn hóa đã không như vậy, quản lý văn hóa ở cấp xã lại càng không.

Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì mục đích tồn tại và sự sống, loài người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, công cụ sinh hoạt, bao gồm quần áo, ăn, ở, phương sử dụng. Tất cả những sáng tạo và Phát minh này là văn hóa. ” Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu về văn hóa một cách cụ thể và toàn diện hơn.

Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết là “vì sự sống, nhưng cũng vì mục đích sống”. Những hoạt động sống đó được thực hành, lặp đi lặp lại theo thời gian, lặp lại thành thói quen, phong tục, luyện thành chuẩn mực, tích lũy vật chất và tinh thần. Theo truyền thuyết, nó đã trở thành báu vật quý giá mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp phần tạo nên di sản văn hóa của cả nhân loại.

Ở góc độ khác, người ta coi văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy trong hoạt động thực tiễn thông qua quá trình con người tương tác với tự nhiên, tự nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa là do con người tạo ra, do con người tạo ra, do con người tạo ra. Văn hóa được con người gìn giữ, sử dụng để phục vụ đời sống con người, được truyền từ đời này sang đời khác.

culture văn hóa trong tiếng Anh.

2. Đặc điểm văn hóa:

– Văn hóa Hệ thống

Cần phải phân biệt rõ ràng giữa hệ thống và tập thể. Tính hệ thống của văn hóa có tính chất “xương sống”, tức là mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố, có thể bao hàm hàng loạt sự kiện, liên kết các hiện tượng, quy luật với nhau trong quá trình phát triển.

Bởi vì nó có tính hệ thống, văn hóa có thể hoạt động như một xã hội. Nguyên nhân là do văn hóa bao trùm mọi hoạt động, mọi lĩnh vực. Từ đó làm tăng tính ổn định của xã hội, cung cấp và trang bị cho xã hội những phương tiện cần thiết để thích ứng với môi trường tự nhiên.

Nói cách khác, văn hóa đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển tiến bộ của xã hội. Có lẽ vì vậy mà người ta thường gắn văn hóa với từ “nền” để tạo thành cụm từ chung là “văn hóa”.

– Văn hóa có giá trị

Văn hóa nếu hiểu theo nghĩa tính từ thì có nghĩa là tốt đẹp, có giá trị. Người có văn hóa cũng là người có giá trị. Vì vậy, văn hóa trở thành tiêu chuẩn để đo lường con người và xã hội.

Bản thân văn hóa có giá trị riêng, bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Xét về mặt ý nghĩa, văn hóa có thể được chia thành giá trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ và giá trị đạo đức. Dưới góc độ thời gian, văn hóa có thể được chia thành giá trị vĩnh cửu và giá trị tạm thời.

Chúng ta có thể có những quan điểm khác nhau về các sự vật, hiện tượng, sự kiện khác nhau. Từ những góc độ này, chúng ta có thể đánh giá văn hóa từ những góc độ khách quan khác nhau.

– Văn hóa là con người

Nhân học văn hóa có nghĩa là văn hóa được xem như một hiện tượng xã hội. Hiện tượng xã hội được hiểu là những hiện tượng do con người tạo ra hoặc do con người tạo ra, khác biệt với những giá trị tự nhiên hoặc những sáng tạo tự nhiên. Vì là con người nên văn hóa chịu sự tác động của cả vật chất và tinh thần.

Trong khi đó, vì bản chất con người của nó, văn hóa đã bất ngờ trở thành sợi dây liên kết giữa con người, vạn vật và vạn vật. Đây là ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhất của văn hóa.

– Lịch sử và Văn hóa

Văn hóa phản ánh quá trình sáng tạo của con người trong một thời gian và không gian nhất định. Vì vậy, văn hóa cũng liên quan đến chiều dài của lịch sử, thậm chí văn hóa còn chứa đựng lịch sử. Đặc điểm lịch sử tạo cho một nền văn hóa bề dày, chiều sâu và hệ thống giá trị của nó. Vì có tính lịch sử nên văn hóa cũng cần được bảo tồn, hay nói cách khác là chuyển hóa thành truyền thống văn hóa.

Những nền văn hóa có giá trị lịch sử cao cần liên tục được tích lũy, bảo tồn, tái tạo, chắt lọc, sản sinh và phát triển dưới hình thức ngôn ngữ và phong tục tập quán.

3. Chức năng văn hóa:

Nhìn chung, văn hóa có những chức năng chính sau:

I). Đó là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của hệ thống phát triển đất nước theo mô hình – con đường, và giá trị cốt lõi của hệ thống chính trị thực sự “vì dân, vì dân”, “vì dân”. Xác lập mục tiêu tổng thể của sự phát triển và đặt con người lên hàng đầu; con người là cơ quan chính của sự phát triển, Một mục tiêu khác của sự phát triển. Những giá trị này thường được xác định và thiết lập trong chương trình của đảng cầm quyền, trong hiến pháp, luật pháp và chiến lược phát triển của đất nước …

ii). Đó là cơ sở để xây dựng các hệ thống kinh tế, các khái niệm kinh doanh và các giá trị cốt lõi đạo đức nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và môi trường năng động, hiệu quả, hài hòa và bền vững; phát triển bao trùm, “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Xác lập phương hướng phát triển lâu dài của đất nước và thời kỳ cụ thể của hệ thống giá trị phát triển chung. Hệ giá trị phát triển thể hiện ở giá trị phát triển của con người, chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái và các lĩnh vực khác.

iii). Đó là cơ sở để xác lập các giá trị xã hội, lối sống xã hội, đạo đức xã hội, pháp quyền, nhân văn, bản chất con người, tôn trọng quyền con người, quyền công dân. Nó là cơ sở để tạo ra “sức mạnh mềm” trong phát triển.

d). Nó là cơ sở để xác lập hệ giá trị phát triển và cơ chế vận hành tương ứng của từng chủ thể xã hội (phản ánh những giá trị mà chủ thể đó tuân thủ và theo đuổi); nó tạo ra sức mạnh nội sinh cho hệ thống mở trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, và vì sự phát triển bền vững của các lĩnh vực khác nhau và thậm chí toàn xã hội.

v). Đó là cơ sở hình thành hệ giá trị của hợp tác và hội nhập quốc tế dựa trên nguyên tắc thượng tôn lợi ích quốc gia, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của nhân dân các nước. Phát triển chung, đôi bên cùng có lợi và đôi bên cùng có lợi, cùng bảo vệ các giá trị chung của nhân loại.

vi). Đó là cơ sở để xây dựng cơ chế liên kết – điều tiết sự phát triển bằng cách liên kết các giá trị giữa các chủ thể và toàn xã hội, hạn chế tác động tiêu cực trong quá trình phát triển.

4. Cấu trúc văn hóa:

biểu tượng

Biểu tượng là bất kỳ thứ gì có ý nghĩa cụ thể và được các thành viên của cộng đồng con người công nhận. Âm thanh, đồ vật, hình ảnh, hành vi của con người, và thậm chí cả các ký tự trên trang này… là những biểu tượng văn hóa. Các biểu tượng văn hóa đã thay đổi theo thời gian và khác nhau, thậm chí trái ngược nhau giữa các nền văn hóa. Gật đầu đồng ý ở Việt Nam, nhưng không đồng ý ở Bulgaria.

Chủ nghĩa tượng trưng là nền tảng của tất cả các nền văn hóa và cung cấp cơ sở xác thực cho các cá nhân trải nghiệm và cảm nhận cuộc sống trong bối cảnh xã hội. Tuy nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, các thành viên thường chưa nhận thức được hết tầm quan trọng của các biểu tượng vì chúng đã trở nên quá quen thuộc. Sức mạnh của các biểu tượng văn hóa có thể được nhìn thấy cùng với các biểu tượng văn hóa khác khi thâm nhập vào nền văn hóa khác. Nếu sự khác biệt đủ lớn, người xâm nhập có thể bị sốc nuôi cấy.

Sự thật

Sự thật là tính chính xác và rõ ràng của suy nghĩ. Một số coi những lẽ thật này là nguyên tắc được nhiều người chấp nhận. Hoặc theo quan điểm thực dụng liên kết ý nghĩa của sự thật với công dụng thực tế của nó. Nếu hiểu đúng và sâu hơn thì chân lý là sự phản ánh chân thực thế giới khách quan vào ý thức con người. Chân lý là tri thức phù hợp với thực tế khách quan và đã được thực tế kiểm nghiệm. Dưới góc độ xã hội học, chân lý là khái niệm chỉ những gì là đúng và những gì là đúng. Bởi thế mà mỗi xã hội, mỗi nền văn hóa đều có chân lý và chân lý khác nhau. Điều này có nghĩa là một số điều được một nền văn hóa coi là sự thật và có thể bị phủ nhận ở một nền văn hóa khác.

Các cá nhân không thể xây dựng sự thật. Sự thật chỉ có thể được hình thành bởi một nhóm người. Thông qua tiếp xúc và tương tác với các nhóm nhỏ và nhóm lớn, các cá nhân hình thành những ý kiến ​​thực tế, xác thực, ngày càng khách quan và sát thực tế hơn. Vì vậy, văn hóa là tổng hòa của các chân lý. Sự thật luôn cụ thể bởi vì mục tiêu thực sự là nguồn gốc của nó. Những sự vật, quá trình cụ thể của xã hội và con người luôn tồn tại, không tách rời những điều kiện lịch sử và khách quan cụ thể. Khi điều kiện khách quan thay đổi, sự thật khách quan cũng vậy.

Mỗi người đều có bối cảnh lịch sử khác nhau và do đó có một phần sự thật khác nhau trong nền văn hóa của họ. Ngay cả các quốc gia trong các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng có những lý do khác nhau.

Giá trị

Giá trị Là sản phẩm của văn hóa, từ giá trị có thể đề cập đến sở thích, mối quan tâm, sở thích, sở thích, nghĩa vụ, trách nhiệm, mong muốn, nhu cầu, không thích, hấp dẫn và nhiều hình thức định hướng lựa chọn khác. Rất khó để tìm ra một định nghĩa duy nhất mô tả đầy đủ phạm vi và sự đa dạng của các hiện tượng giá trị được thừa nhận. Khoa học xã hội xem giá trị là khái niệm về những thứ mong muốn ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn. Ở góc độ rộng hơn, tốt hay xấu đều là giá trị, hay giá trị là điều mà chủ thể quan tâm. Giá trị là thứ mà chúng ta coi trọng, chúng ta thích, mà chúng ta nghĩ là quan trọng để định hướng hành động của chúng ta.

Giá trị là những gì các thành viên của một nền văn hóa sử dụng để quyết định điều gì là mong muốn và không mong muốn, tốt hay xấu, tốt hay xấu … Trong một xã hội, các thành viên xây dựng bản thân và thế giới theo những nhận thức về giá trị văn hóa này. Lớn lên, con người học từ gia đình, nhà trường, tôn giáo, giao tiếp xã hội … và từ đó xác định cách suy nghĩ và hành động theo các giá trị của văn hóa. Giá trị là những đánh giá dựa trên quan điểm văn hóa và nên khác nhau ở mỗi người, nhưng trong một nền văn hóa thậm chí có những giá trị mà đại đa số các thành viên của nhiều nền văn hóa chấp nhận và có xu hướng sở hữu. Ví dụ như tự do, bình đẳng, tình huynh đệ, hạnh phúc … Các giá trị luôn thay đổi, ngoài những xung đột về giá trị giữa các cá nhân hay các nhóm trong xã hội, còn có những xung đột về giá trị trong mỗi cá nhân, chẳng hạn như xung đột về giá trị giữa các cá nhân. thành công và tinh thần cộng đồng.

Mục tiêu

Mục tiêu là một trong những yếu tố cơ bản của hành vi và hành động có ý thức của con người. Mục tiêu được xem như là kết quả của các hành động được dự đoán. Đây là mục tiêu thực tế cần đạt được. Mọi người tổ chức tất cả các hành động của họ xung quanh những mục đích thiết thực này. Các mục tiêu cho phép kết hợp các hành vi khác nhau của con người thành một hệ thống có thể thúc đẩy sự phát triển của các lựa chọn thay thế hành động.

Trên thực tế, có những mục tiêu cá nhân và mục tiêu chung (cộng đồng, xã hội). Các mục tiêu chung nảy sinh theo hai cách: thông qua sự thống nhất chung về các mục tiêu cá nhân của nhóm và thông qua sự trùng lặp của một số mục tiêu riêng của các thành viên trong nhóm. Mục tiêu là một phần của văn hóa và phản ánh văn hóa của một quốc gia.

Mục tiêu bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi giá trị. Dù giá trị đến đâu cũng dễ dàng tạo ra mục tiêu như vậy, không có giá trị thì không có mục tiêu, giá trị gắn liền với mục tiêu. Nhưng mục tiêu không giống như giá trị.

Tiêu chuẩn

Chuẩn mực là một tập hợp các kỳ vọng, yêu cầu và quy tắc xã hội, được ghi lại bằng từ ngữ, ký hiệu hoặc biểu tượng để xã hội hướng dẫn hành vi của các thành viên. Theo quan điểm xã hội học, các chuẩn mực văn hóa quan trọng được gọi là chuẩn mực đạo đức, và các chuẩn mực văn hóa thứ cấp được gọi là phong tục truyền thống. Vì tầm quan trọng của mình, các chuẩn mực đạo đức thường được pháp luật hậu thuẫn để hướng dẫn hành vi của các cá nhân (ví dụ: trộm cắp là vi phạm các chuẩn mực đạo đức, ngoài ra còn bị xã hội phản ứng). Luật cũng quy định các hình phạt bắt buộc).

Các phong tục truyền thống như quy tắc giao tiếp, ứng xử nơi đông người … thường thay đổi theo từng tình huống (ví dụ: mọi người có thể huýt sáo trong buổi biểu diễn nhạc rock nhưng không phải khi đang nghe nhạc. thính phòng), các hành vi vi phạm chuẩn mực xã hội mà các thành viên phản ứng ít mạnh mẽ hơn (ví dụ: , nếu một người mặc đồ ngủ đi mua sắm ở siêu thị, những người xung quanh sẽ phản đối, nhưng gần như chắc chắn là không. Ai trực tiếp phản đối). Các chuẩn mực văn hóa khiến các cá nhân tuân thủ, và các phản ứng tích cực (khen thưởng) hoặc tiêu cực (trừng phạt) của xã hội thúc đẩy sự tuân thủ này.

Phản ứng tiêu cực của xã hội đối với việc vi phạm các chuẩn mực văn hóa là cơ sở của một hệ thống kiểm soát văn hóa hoặc kiểm soát xã hội mà theo đó các thành viên của xã hội đồng ý tuân theo các chuẩn mực văn hóa thông qua nhiều phương tiện khác nhau. Ngoài phản ứng của xã hội, phản ứng của bản thân cũng góp phần vào việc tuân thủ các chuẩn mực văn hóa. Quá trình này là sự đồng hóa các chuẩn mực văn hóa, hoặc sự kết hợp các chuẩn mực văn hóa vào nhân cách của một người.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button