Hỏi Đáp

Lịch Sử Câu Namo Tassa Bhavagato Arahato Samma Sambuddhasa – Thiền Sư U Silananda

Hương vị của Pháp – Thiền sư u silananda

Các thiền giả thường được yêu cầu tuân thủ Tam quy và Bát giới vào mỗi buổi sáng trước khi bắt đầu một ngày thiền định của họ. Từ đầu tiên bạn nói 3 lần là:

Bạn đang xem: Namo tassa bhagavato arahato samma sambuddhassa là gì

namo tassa bhavagato arahato samma sambuddhasa “ .x3

Ý nghĩa của câu này là: “ Tôi hết lòng đảnh lễ Đức Thế Tôn. Ngài là một vị La Hán cao thượng đã đắc đạo, do tự chứng, không phải do thầy dạy dỗ.” mạnh>>. “

Bạn sẽ đọc và đọc lại lời khen ngợi ở trên gần như mỗi ngày trong suốt khóa học. Guru của bạn đã nói với bạn nhiều lần rằng những bài thánh ca này là trong hình thức mà guru đã có khi ông ấy còn sống. Phật tử khi đến chiêm bái hay cúng bái Ngài đều niệm câu này để tỏ lòng thành kính với đấng đã giác ngộ. Rải rác trong nhiều bộ kinh Phật khác nhau, có nhiều hình thức thờ tự như trên.

Tôi không thể thu thập tất cả, cũng như không biết Chúa có bao nhiêu lời ngợi khen. Tuy nhiên, hôm nay tôi sẽ kể cho các bạn nghe về một người đàn ông đột nhiên đọc câu này để ca ngợi sự uy nghiêm của ngài và nguyện trở thành đệ tử của Đức Phật.

Ngày xưa, Đức Phật sống ở Góc Rừng Lớn gần thành phố Vesari. Vào thời điểm đó, một người Bà la môn tên là karanapali đang giám sát việc xây dựng dinh thự của người cai trị thành phố. Trong khi ông đang làm việc, ông nhìn thấy một Bà la môn khác tên là pingiyani từ xa đến. Karanapali nhìn thấy vẻ mặt vui mừng của người đàn ông và hỏi: “Xin chào, vị thánh. Vị thánh từ đâu đến vào buổi trưa?”

– Tôi vừa đến đây từ Gautama ẩn sĩ.

karanapali đã nghe giọng nói của Phật Gautama, một vị thánh vĩ đại đầy đức hạnh và trí tuệ phi thường. Tuy nhiên, tôi muốn biết Pinjani nghĩ gì về anh ấy, vì vậy tôi đã hỏi:

– Này Thánh bính âm! Bạn có nghĩ Gautama nhà tu hành khổ hạnh là một nhà hiền triết vĩ đại, người đã đạt được toàn giác không?

pingiyani trả lời:

– Tôi là ai để hiểu được sự vĩ đại và trí tuệ toàn tri của vị ẩn sĩ Gautama! Tôi không biết có ai như anh ấy có thể hiểu được không.

karanapali lặp lại câu hỏi của mình và pingyani trả lời như trên.

Nghe như vậy. Karana Pali nói:

– Theo lời của một vị thánh, vị ẩn sĩ Gautama đáng được ca ngợi và tôn kính!

pingiyani sau đó trả lời:

– Tôi là điều đáng khen ngợi, hãy ca ngợi vị ẩn sĩ Gautama! Tôi thật nhỏ bé và nhỏ bé khi đứng trước cái lớn lao!

Nhưng thật ra chúng ta không cần ca ngợi Đức Phật, bởi vì Ngài đã thành tựu vô số đức hạnh cao quý, nên Ngài có một vẻ đẹp rực rỡ uy nghi khiến ai gặp Ngài cũng phải thán phục. cúi chào anh ấy.

p>

Nghe những lời nói đầy trân trọng của pingiyani, karanapali tự hỏi tại sao anh ấy lại được khen như vậy:

– Thánh Pinyani, ngài đã nhận được gì từ Gautama đáng kính, sau khi gặp ngài, trong lòng tràn ngập vui sướng, vẻ mặt thanh tịnh và ôn hòa như vậy?

pingyani trả lời câu hỏi trên bằng năm ví dụ sau:

<3 Tương tự như vậy, khi một người nghe những lời dạy chân chính và tuyệt vời của Gautama the Hermit, mặc dù những lời dạy này được chứa đựng trong những bài kinh rất dài xen kẽ với những câu thơ, bài bình luận và chú giải, hoặc những lời chúc phúc, người đó sẽ không thích nghe nó. nữa không. Giảng dạy từ các giáo viên khác.

2) Giống như một người đói cầm một chiếc bánh làm bằng mật ong hoặc được tráng bằng mật ong, anh ta ăn nó một cách vui vẻ, thưởng thức hương vị béo ngậy và thơm của bánh. Tương tự như vậy, bất cứ ai nghe Pháp từ Gautama ẩn sĩ, cho dù ở đầu, giữa hay cuối của một bộ kinh dài, hoặc một bài kinh xen lẫn với các bài kệ, chú giải và chú giải, hoặc một thông điệp đầy phước lành, người đó cũng sẽ phát khởi niềm vui và sự tin tưởng. trong Phật ở mọi giai đoạn.

3) Nếu ai đó đến gần một khúc gỗ trầm hương màu vàng hoặc hồng, dù từ trên xuống, giữa hay dưới cùng, người đó đều có thể ngửi thấy mùi thơm của trầm hương và thưởng thức hương vị đó. Hương thơm ngọt ngào. Tương tự như vậy, bất kể lời giải thích nào mà hành giả nghe từ miệng Đức Phật, cho dù đó là phần đầu, phần giữa hay phần cuối, thì bậc hiền nhân sẽ cảm thấy rất hài lòng và an lạc ở giai đoạn đó.

4) Giống như một bác sĩ giỏi có thể chữa khỏi bệnh cho một bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo. Cũng như vậy, nếu người ta nghe được những lời dạy của Đức Phật Gautama, cho dù đó là những bài kinh dài, những khổ thơ, những lời bình luận, những lời chúc phúc, thì mọi phiền muộn, phiền muộn, tuyệt vọng sẽ tan biến.

Tôi hy vọng tất cả các bạn còn nhớ câu chuyện về bà Pankatara, một phụ nữ mới sinh yếu ớt, người đã phải mất chồng, hai con, cha mẹ và anh trai trong một ngày. Cô phát điên và được đưa đến gặp Đức Phật. Sau khi nghe những lời dạy của Đức Phật về vô thường và đau khổ trong cuộc đời, pancatara đã đạt được quả vị nhập dòng. Sau đó cô xin Đức Phật cho cô xuất gia, gia nhập một nhóm ni cô, tiếp tục tu hành, và cuối cùng đạt được giải thoát.

Có một câu chuyện khác về vizier saneti. Nhà vua ban cho chàng hoan lạc bảy ngày bảy đêm. Vào ngày thứ bảy, một trong những vũ công yêu thích của anh ấy đột nhiên gục ngã. Anh ấy vô cùng đau khổ và tuyệt vọng nên đã tìm đến Đức Phật và được Ngài ban cho một thời pháp. Tôi nghe xong cũng yên tâm.

Một câu chuyện khác kể về một vị thần sắp kết thúc cuộc đời của mình và biết rằng mình sẽ chết và đi xuống địa ngục. Vị thần vô cùng đau đớn và tìm thấy Đức Phật. Bổn tôn nghe Pháp và chứng nhập dòng. Vì vậy, Phật và Pháp được ví như những vị thuốc chữa bệnh, có thể chữa lành những nỗi buồn phiền, muộn phiền, tuyệt vọng của tất cả chúng sinh.

5) Phật Pháp được ví như một hồ nước mát với cây cối xanh tốt bao quanh. Có một người lữ hành đi xa, bị nắng thiêu đốt, mệt mỏi, bẩn thỉu và khát nước. Người bước xuống hồ, uống nước tắm sạch sẽ, sảng khoái, mát mẻ, sảng khoái. Tương tự như vậy, bất cứ ai nghe Pháp từ ẩn sĩ Gautama, dù ở đầu, giữa hay cuối một đoạn kinh dài, hoặc một đoạn kinh xen lẫn với những câu thơ, những bài bình luận và chú giải, hoặc một thông điệp đầy phước lành, sẽ giải tỏa được mệt mỏi và buồn phiền. thiêu đốt trái tim.

Vì vậy, khi bạn cảm thấy lo lắng, lo lắng, buồn phiền, hãy lắng nghe những lời dạy cao quý của Đấng Thánh. Bạn có thể đọc một cuốn sách về đạo Phật để giải tỏa căng thẳng, khủng hoảng tinh thần.

Như bạn có thể thấy ở đây, Pinyani chỉ mới nghe về Phật pháp và chưa bước vào tu tập, nhưng vẫn cảm thấy rất bình an và hạnh phúc. Nếu bạn biết cách thực hành Phật pháp, bạn sẽ nhận được bao nhiêu lợi ích từ Phật pháp.

Pháp hoàn hảo đề cập đến Pháp tốt ở phần đầu, phần giữa và phần cuối.

Thiện căn ban đầu: Khi bạn nghe Pháp, bạn có một tâm thiện.

Trung là tốt: Thực hành là tốt.

Cái chết hạnh phúc: Khi anh ta hoàn toàn thực hành Pháp, hoàn thành việc thực hành của mình và gặt hái những lợi ích của Pháp. p>

Do đó, Pháp mang lại lợi ích cho những ai nghe được, thực hành và cuối cùng nhận được kết quả mà nó mang lại.

Nhiều người có thói quen đọc sách Phật giáo khi họ cảm thấy chán nản, và hầu hết các Phật tử đều thích đọc Kinh Pháp Cú. Tôi luôn mang theo cuốn kinh này bất cứ khi nào tôi có thời gian, vì những lời dạy của Đức Phật trong kinh này rất dễ hiểu, thiết thực và ngắn gọn. Mỗi khi đọc nó, tâm hồn tôi thấy hạnh phúc, bình yên và tĩnh lặng. Mục đích của những gì Đức Phật dạy là để thanh lọc, tĩnh tâm và mang lại hạnh phúc cho người nghe.

Nghe Pinyani nói vậy, Kalonapali nhảy lên khỏi mặt đất, khoác áo qua vai, quỳ xuống nơi Đức Phật đang đặt tay trên ngực, cúi đầu và niệm “ namo tassa bhagavato arahato samma sambuddhassa ”. Pinjani cũng ngây ngất. Anh dừng lại chỉnh đốn y phục, như một nhà sư, dang rộng vai phải, quỳ trên mặt đất, chắp tay trước ngực và niệm:

namo tassa bhavagato arahato samma sambuddhassa

Khi chúng ta đảnh lễ Đức Phật và tụng bài thánh ca này, chúng ta bày tỏ lòng tôn kính và ca ngợi ba trong chín phẩm chất của Đức Phật, được ghi lại đầy đủ trong kinh điển Phật giáo. Chúng ta cần hiểu ý nghĩa của câu này:

namo : Lễ hội

Thassa : Gửi lời chúc phúc

bhavagato : Công lao tối cao

arahato : Loại bỏ mọi ưu phiền trong lòng, đáng được chư thiên và đàn ông cúng dường.

samma : bản thân tôi, không phải giáo viên.

<3

Sau khi đảnh lễ Đức Phật, karanapali nói với pingiyani: “Làm tốt lắm! Hiền giả Piniyani, giống như một người đang nắn một vật gì đó rơi xuống, như một người đi lạc đang tìm đường, như một người cầm đèn trong tay. Tôi muốn thấy mọi việc rõ ràng. Phật pháp do Phật dạy, Hán Việt chỉ dạy. Từ nay tôi thề nhất định phải bám Phật, sống và làm theo lời Phật dạy. ”

Những từ tương tự thường được tìm thấy trong kinh sách khi ai đó bày tỏ niềm vui và sự tôn kính của mình đối với Đức Phật sau khi nghe Pháp từ Đức Phật hoặc những người khác.

Pinyani, sau khi ngưỡng mộ Phật và Pháp, đã quyết định ngay lập tức quy y với Đức Phật và trở thành một Phật tử.

Hình thức quy y này đã có từ thời Đức Phật. Những lời đầu tiên của người cải đạo là “ namo tassa bhavagato arahato samma sambuddhassa “, yêu cầu trở thành đệ tử của Đức Phật suốt đời.

Quy y Tam bảo nghĩa là biết chính xác mình đang quy y cho ai. Nói cách khác, chúng ta coi Tam bảo là người thầy tốt nhất, là kim chỉ nam tốt nhất để hướng dẫn chúng ta. Chúng tôi đang trên con đường phát triển tinh thần.

Quy y Tam Bảo không phải là phó thác mình vào Phật, Pháp, Tăng để được cứu độ, giác ngộ và giải thoát, mà là dùng Phật, Pháp, Tăng làm thầy hướng dẫn mình đến giác ngộ và giải thoát.

Nhưng quy y Tam Bảo chỉ là bước đầu tiên để trở thành đệ tử của Đức Phật. Thứ hai, người Phật tử phải thực hành theo giới luật, định lực và trí tuệ để đạt được mục tiêu cuối cùng là giác ngộ, giải thoát và chấm dứt khổ đau.

Bạn đã nghe và học rất nhiều Phật pháp, tôi hy vọng bạn có thể tìm thấy sự bình an và niềm vui trong nội tâm. Hơn nữa, bằng cách biết cách thực hành Vipassana, bạn sẽ đạt được niềm vui và sự thanh lọc từ những kho tàng huyền diệu mà việc thực hành của bạn mang lại. Cuối cùng khi bạn đạt được giác ngộ, bạn sẽ hoàn toàn tận hưởng được hạnh phúc cao nhất của sự giải thoát. Đây là điều cao quý nhất của đời người.

Phật khuyên: “Phải tự mình nỗ lực. Như Lai chỉ là bậc thầy chỉ dạy. Người nào thực hành Bát Chánh Đạo thì sẽ từng bước thoát khỏi tội lỗi, thoát khỏi mọi phiền não, và từng bước tiêu trừ mọi phiền não trong trái tim của họ. “

Vì vậy, nếu chúng ta muốn thiền định thanh tịnh thực sự, chỉ nghe Pháp thôi là chưa đủ, chúng ta phải quyết tâm thực hành những gì chúng ta đã học được từ lời dạy của Đức Phật. Chúng ta không nên bằng lòng với chính mình, bởi vì chúng ta có kiến ​​thức sâu rộng về Phật pháp, nhưng chúng ta phải quyết định đặt mục tiêu cuối cùng của cuộc đời mình là giác ngộ và giải thoát trong con đường đạo đức, định lực và trí tuệ này. thiền. Vật chất.

Mong bạn tiếp tục theo bước chân của Sư Phụ và vững bước trên Bát Chánh Đạo này mãi mãi. Cố gắng tu tập không ngừng, để thanh lọc hết những uế tạp trong lòng, sớm nhất đạt được quả Đạo, chấm dứt mọi khổ đau trong cuộc đời này.

Sadu! Sadhu! Sadhu!

nltv ngày 20 tháng 4 năm 1995

Giới thiệu về Thiền sư u silananda

Thiền sư U Silananda thọ giới tỳ kheo đã hơn bốn mươi lăm năm. Ngài hoàn mãn văn bằng Phật học cao cấp nhất tại Miến Ðiện và đã từng dạy đại học nơi này. Trong kỳ Kiết Tập Kinh Ðiển Phật Giáo lần thứ sáu tại Miến Ðiện vào năm 1954, Ngài là vị lãnh đạo việc soạn thảo Tự Ðiển Miến-Pali và cũng là Trưởng Ban Kiết Tập Kinh Ðiển Pali, Chú Giải, và Chú Giải Của Chú Giải lúc Ngài mới vừa 26 tuổi. Ngài là tác giả của nhiều sách viết bằng tiếng Miến và tiếng Anh, trong đó có cuốn The Four Foundations Of Mindfulness (Tứ Niệm Xứ hay là Bốn Lãnh Vực Quán Niệm), một cuốn sách căn bản giảng dạy chi tiết về Tứ Niệm Xứ.

Năm 1979, Ngài được Hòa thượng Mahasi Mahasi, một trong những thiền sư nổi tiếng nhất ở Myanmar, chọn đi thuyết giảng ở nước ngoài, đặc biệt là tại Hoa Kỳ. Với sứ mệnh này, Ngài đã hướng dẫn thiền định và giảng dạy Abhidhamma ở nhiều nơi ở Hoa Kỳ, Nhật Bản, Châu Âu, Sri Lanka, Canada, Mexico, Jamaica …

Năm 1993, ông được Chính phủ Myanmar trao tặng danh hiệu aggamahapandita (Tốt nhất, Vĩ đại, Thông thái).

Năm 1999, ngài được trao tặng danh hiệu Agama Hassama Chotika vì đã hoằng pháp ở nước ngoài và làm cố vấn trưởng cho ban cố vấn của Đại học Phật giáo Myanmar Yangon (Đại học Truyền giáo Nguyên thủy Quốc tế, Yangon). Anh ta hiện là Mage of Half Moon Bay, California, và là thủ lĩnh tinh thần của Berkeley, California và Mage Mage.

Với kinh nghiệm sâu sắc và kiến ​​thức sâu rộng về Phật pháp, thầy giảng dạy các giáo lý và hướng dẫn thiền định một cách ngắn gọn và rõ ràng với tinh thần từ bi của một bậc thầy. .

Ông được yêu mến và kính trọng bởi tất cả các thiền sinh, bất kể quốc tịch hay chủng tộc.

Ông đã dạy thiền cho nhóm thiền Như Lai từ cuối năm 1987 và hiện là vị thầy tâm linh hàng đầu của Tu viện Như Lai.

Tuyển tập “Hương Vị Pháp” này bao gồm 10 bài học, được chọn lọc từ các bài giảng của các lớp giảng dạy và thiền định mà ông đã tổ chức tại Tu viện Như Lai trong hơn 10 năm qua.

Like Hybrid Abbey, San Jose, Hoa Kỳ

Nguồn budas.org

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button