Hỏi Đáp

Hậu tiến sĩ bị “lãng quên” | Giáo dục Việt Nam

Gần đây, cộng đồng các trường đại học đang bàn tán sôi nổi về quy chế đào tạo tiến sĩ vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Ở một quốc gia đã trải qua các mô hình đại học khác nhau trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, việc các quy định liên quan đến giáo dục đại học liên tục điều chỉnh cũng là điều bình thường. Tuy nhiên, những thay đổi trong giáo dục đại học cần hướng tới mục tiêu tiếp cận và hội nhập giáo dục quốc tế.

Bài viết hôm nay, tôi có một số suy nghĩ về vấn đề Ph.D., nhưng trong giai đoạn postdoc, đó là postdoc.

Bạn đang xem: Nghiên cứu sau tiến sĩ là gì

Ở Việt Nam, postdocs thường không được đề cập trong các quy định, tức là không có postdocs.

Có hai quy trình khác nhau cho nghiên cứu sau tiến sĩ. Postdoc thường đề cập đến giai đoạn nghiên cứu sau tiến sĩ, quá trình chuẩn bị cho việc tuyển dụng để trở thành giảng viên đại học, thường kéo dài khoảng một năm. Quy trình sau tiến sĩ này được thiết kế để giúp các sinh viên mới tốt nghiệp Tiến sĩ thực hiện nghiên cứu tại trường đại học để tích lũy kinh nghiệm và “xin việc”. Trong bài viết này, tôi không đề cập đến công đoạn này.

Hậu tiến sĩ bị "lãng quên" ảnh 1

Ảnh minh họa: nguồn Báo Vietnamnet

Ngoài ra còn có một dạng postdoc thứ hai mà tôi tự thiết lập để dễ nhận biết, vì quá trình postdoc này cũng xảy ra sau khi hoàn thành chương trình Tiến sĩ và làm việc tại một trường đại học trong nhiều năm.

Bỏ qua yếu tố tiêu chuẩn quốc tế, quy chế đào tạo tiến sĩ của Việt Nam dường như tạo cho người đi đường cảm giác rằng sau khi có bằng tiến sĩ, người ta cũng đã đạt đến đỉnh cao tri thức. Đây là một sự hiểu lầm.

Theo những gì tôi biết, việc có bằng Tiến sĩ chỉ là bước đầu tiên trên con đường khoa học của tôi. Khi chuẩn bị học tiến sĩ, đại khái là giai đoạn “học việc” của nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu sinh phải tìm ra những tác phẩm đã được viết về chủ đề của họ trong quá khứ, và sau đó đọc và hiểu những tác phẩm đó. Nếu là ngành khoa học thực nghiệm, bạn phải biết chế tạo các dụng cụ thí nghiệm và máy móc để đo lường. Muốn có kết quả thì phải biết thu thập, đánh giá, trình bày, chuẩn bị bài để đăng tạp chí, viết luận văn, v.v., đồng thời phải biết cộng tác với giám thị, đồng nghiệp và bạn bè.

Nghiên cứu sinh tiến sĩ trải qua nhiều giai đoạn, nhiều giai đoạn trong số đó lần đầu tiên dành cho nghiên cứu sinh. Vì vậy, không ngoa khi nói rằng sau khi học xong tiến sĩ là “chuyên nghiệp” để học lên chuyên môn cao và dấn thân vào nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp trong tương lai.

Nếu tiến sĩ mới tốt nghiệp chỉ được coi là người bắt đầu nghiên cứu khoa học, các trường đại học và viện nghiên cứu hy vọng rằng họ có thể nghiên cứu sau đại học càng trẻ càng tốt và hoàn thành nghiên cứu tiến sĩ càng sớm càng tốt, càng nhiều càng tốt. Đây là lý do tại sao chỉ những sinh viên tiến sĩ ưu tú mới được lựa chọn. Hầu hết các nghiên cứu sinh đều nhận được học bổng, nhưng học bổng thường chỉ có 3 năm (thời gian hoàn thành tối thiểu), kéo dài đến nửa năm, nghĩa là phải làm việc toàn thời gian, không có ngoại lệ. Mục đích là buộc NCS phải hoàn thành chương trình Tiến sĩ trong thời gian ngắn nhất có thể. Đây không phải là một giai đoạn nhàn nhã. Có rất nhiều câu chuyện nghiên cứu sinh tốt nghiệp tiến sĩ ở tuổi 21, 22. Các trường đại học rất miễn cưỡng cho phép nghiên cứu sinh hoàn thành chương trình tiến sĩ khi trưởng thành đơn giản vì tiềm năng nghiên cứu sau tiến sĩ giảm dần theo tuổi tác.

Trong nền giáo dục đại học phát triển, các trường đại học nhận sinh viên mới tốt nghiệp Tiến sĩ thường chỉ được coi là tuyển sinh tạm thời. Nếu bạn muốn được tuyển dụng làm giảng viên toàn thời gian (gọi là nhiệm kỳ), bạn phải có một số công bố trên các tạp chí quốc tế. Như vậy đây là đợt sàng lọc chất lượng tiến sĩ thứ hai.

Tiến sĩ không được coi là điểm đến cuối cùng để tiến sĩ thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu. Trước đây, các trường đại học cũng không có hệ thống nhiệm kỳ, dẫn đến tình trạng tồn tại lâu dài. Sau này phải chuyển sang chế độ nhiệm kỳ để kết nối bác sĩ với nghiên cứu khoa học. Các trường đại học Việt Nam nên nghiên cứu nhiệm kỳ.

Có thể hệ thống nhiệm kỳ không được Việt Nam quan tâm vì có bằng tiến sĩ là tốt rồi, còn cần gì nữa. Nếu điều này là vì lý do chính đáng, e rằng nó sẽ dẫn đến hậu quả thảm khốc.

Trước hết, việc học tiến sĩ đã trở thành chuyện “cá từ trên trời rơi xuống”, nghiên cứu sinh tiến sĩ muốn tốt nghiệp bằng mọi giá, kể cả những biện pháp tiêu cực, kém chất lượng, họ chỉ muốn hóa rồng. , nhưng làm rồng đất cũng không sao, Vì đối với họ, bằng Tiến sĩ là dấu chấm hết chứ không phải là bắt đầu của con đường khoa cử, nếu không có nhiệm kỳ.

Trường đại học cũng không yêu cầu nhiệm kỳ, vì nó không quan tâm đến nghiên cứu khoa học. Về lâu dài, kiểu suy nghĩ này sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của giáo dục và nghiên cứu. Các trường đại học phải quy định một năm, hai năm … nghiên cứu sinh được tuyển dụng mới được công bố công trình, nếu không sẽ bị cắt hợp đồng, không tăng lương, không thăng chức.

Chỉ có như vậy, tiềm năng của các bác sĩ trẻ mới được duy trì và duy trì thói quen nghiên cứu khoa học ngay từ những ngày đầu thành lập. Các biện pháp này có vẻ là mạnh và về lâu dài, các trường học sẽ đạt được lợi ích và nền giáo dục Việt Nam sẽ phát triển.

Đưa tiến sĩ và postdocs thành một thể thống nhất ít nhất có thể làm nản lòng những người muốn làm tiến sĩ và tốt nghiệp bằng tiến sĩ và giảm xung đột. Tình trạng tiến sĩ.

Đến đây, một lần nữa tôi lại nhớ đến kỳ vọng trở thành phó giáo sư, phó giáo sư của các bác sĩ trong điều kiện hiện nay. Đến lúc lên chức phó giáo sư, một giáo sư đã có thâm niên chục năm nghiên cứu khoa học.

Tại sao không trao quyền tự chủ cho các trường và giao chức danh giảng dạy cho các giáo sư của trường như nhiều nước vẫn làm. Khi những trường này nhận trách nhiệm này, họ chắc chắn sẽ đặt ra những ngưỡng nhất định cho việc đậu Tiến sĩ để chuyển lên cấp độ giảng dạy cao hơn. Khi họ tự chịu trách nhiệm, họ tổ chức giám sát nghiêm túc hơn, điều này có thể không loại bỏ tất cả các tác động tiêu cực.

Nhưng điều đó không sao, ngay cả ở Hoa Kỳ, Úc, một giáo sư từ một trường này không nhất thiết phải được chỉ định cho một trường khác: một giáo sư là giáo sư tại một trường cụ thể. Việt Nam đã bắt đầu thí điểm tự tuyển dụng giáo sư trong các trường đại học danh tiếng như đại học quốc gia. Không quá muộn để bắt đầu nghĩ đến việc tự chủ đại học, trong đó có nội dung tuyển dụng giáo sư tự chủ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button