Hỏi Đáp

Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa với quyền công dân và quyền con người ở Việt Nam | Tạp chí Tuyên giáo

Tiền thân của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nước dân chủ cộng hòa, ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Dưới hệ thống xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cầm quyền, lần đầu tiên nhân dân Việt Nam có quyền công dân (QCD) và quyền con người (Qcn).

Nhưng vì những lý do khác nhau, thời gian gần đây, một số đối tượng, nhóm người đã sử dụng Internet và mạng xã hội để xuyên tạc, ký “kiến nghị”, gửi “thư ngỏ”, ra “tuyên ngôn”. Trên mạng “(trong đó có một số đảng viên cánh tả) phủ nhận hệ thống xã hội chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, phủ nhận Tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ nói:” Thể chế Việt Nam hiện nay không đáp ứng được chuẩn mực quốc tế “;” Đảng độc tài trái nguyên tắc pháp quyền “;” Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo đất nước là hành vi chiếm đoạt thành quả cách mạng nhân dân “;” Điều 4 của Hiến pháp 2013 đặt đảng vào vị thế của một siêu cường “…

Bạn đang xem: Thể chế dân chủ chủ nô là gì

Khi Quốc hội Việt Nam thông qua “khuyến nghị” Điều 4 của Hiến pháp 2013, một nhóm trực tuyến đã nói: “Nếu hiến pháp thực sự do nhân dân quyết định thì vai trò được xác định trước của lãnh đạo nhà nước và xã hội là liên kết với các tổ chức chính trị. hoặc các lớp học trước, có Nó đi ngược lại quyền tự chủ, quyền con người, quyền công dân của nhân dân, đi ngược lại bản chất của một đất nước pháp quyền. Ban Chấp hành Trung ương: Đảng phải “thay đổi chương trình, từ bỏ đường lối sai lầm là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển sang đường lối dân tộc, dân chủ, trọng tâm là chuyển hệ thống chính trị từ độc tài toàn trị sang dân chủ”…

Vậy thực chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của chúng ta là gì? Mối quan hệ giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với qcd và qcn là gì? Các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị dùng những thủ đoạn nào nhằm xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay?

Dân chủ là gì?

Dân chủ là một giá trị xã hội được hình thành từ rất sớm, khi các giai cấp và nhà nước xuất hiện, bắt đầu từ chế độ chiếm hữu nô lệ, còn được gọi là “dân chủ nô lệ”. Chỉ có giai cấp chủ nô, một bộ phận nhỏ trong xã hội mới có quyền bầu cử, còn đại đa số, nô lệ chỉ là “công cụ biết nói”. Trong thời đại phong kiến, nền dân chủ dường như không có nhiều tiến bộ. Cuộc cách mạng dân chủ – tư sản đã đem lại bước phát triển cơ bản trong lịch sử dân chủ nhân loại.

Để bảo vệ thành quả của cách mạng, đồng thời đấu tranh chống lại tàn dư của giai cấp quý tộc phong kiến, giai cấp tư sản tuyên bố mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Có thể nói, “Tuyên ngôn Độc lập” (1776) và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” (1789) của Hoa Kỳ đã đánh dấu những thành tựu quan trọng trong quá trình phát triển nền dân chủ nhân loại.

Tuy nhiên, nền dân chủ tư bản (tbcn) vẫn còn nhiều hạn chế vì chế độ sở hữu bất bình đẳng, vì sự phân hóa giàu nghèo. Trên thực tế, tỷ lệ cử tri đi bầu có xu hướng thấp trong các cuộc bầu cử ở nhiều nước phát triển hiện nay. Cuộc bầu cử gần đây nhất của Hoa Kỳ (2016) chỉ ở mức “dưới 70%”. Bang có tỷ lệ cử tri đi bầu được mong đợi cao nhất là Minnesota (75%) và thấp nhất là Utah (53,1%). Tỷ lệ cử tri đi bầu trong những năm 1980 thậm chí còn thấp hơn, dao động từ 48% đến 57%. “(1)

Khi phát triển tư tưởng của Mác và Ph.Ăngghen, Lê-nin đã nhiều lần khẳng định: Dân chủ … là một hình thức nhà nước, một trong những hình thức của nhà nước. Dân chủ cũng là một quốc gia, vì vậy nếu quốc gia bị mất đi thì dân chủ cũng mất đi. Lê-nin còn nhấn mạnh: “Dân chủ là tự do, bình đẳng, đa số quyết định; không có gì cao hơn tự do, bình đẳng, đa số quyết định” (2). Nền dân chủ được tạo ra sau cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo là nền dân chủ cao nhất, ưu việt hơn nền dân chủ của Trung Quốc. Không có giới hạn luật định nào đối với tất cả công dân và ứng cử viên tham gia bầu cử; một nhà nước được hình thành bởi bầu cử tự do sẽ trở thành một hình thức dân chủ.

Đối với dân tộc Việt Nam, cuộc cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thành công tháng 8 năm 1945 đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc: kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân, dân chủ nhân dân, dân chủ vì người dân. Người do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Theo hệ thống này, nhà nước là người bảo vệ qcd và qcn của mọi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về nền dân chủ Việt Nam một cách giản dị và sâu sắc: “Nước ta là nước dân chủ, dân chủ bao nhiêu quyền lợi; nhân dân có bao nhiêu quyền; công cuộc tái thiết, xây dựng là trách nhiệm của nhân dân; kháng chiến và kiến ​​quốc là trách nhiệm của nhân dân. quyền lực nằm trong tay nhân dân ”(3). Nét độc đáo trong quan điểm dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nằm ở quyền, mà còn ở nghĩa vụ và trách nhiệm công dân.

Hiện nay, trên thế giới có nhiều hình thức dân chủ với tên gọi khác nhau, ví dụ: Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (Lào); Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa (Việt Nam); Cộng hòa Nhân dân (Trung Quốc) … trừ một số nước vẫn theo chế độ quân chủ Ngoài ra, mỗi bang đều có hệ thống nghị viện, chẳng hạn như các nước cộng hòa tổng thống (Hoa Kỳ, Mexico …); các nước cộng hòa nghị viện (Áo, Ấn Độ, v.v.) đều là các nước dân chủ ở Trung Quốc. Trong các nền dân chủ này, có nhiều mô hình dân chủ khác nhau, chẳng hạn như: dân chủ đa đảng, dân chủ một đảng cầm quyền … Vì vậy, việc người dân áp dụng một mô hình dân chủ nào đó, chẳng hạn như mô hình phương Tây, là phủ nhận của Việt Nam. dân chủ xã hội chủ nghĩa. Một cái nhìn hẹp hòi, nếu không vì động cơ chính trị thâm độc, nhằm xóa bỏ chế độ hiện hữu và thành quả cách mạng của dân tộc Việt Nam.

Mối quan hệ giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với qcd và qcn

Trong các hệ thống xã hội nói chung, đặc biệt là ở mỗi quốc gia dân chủ, có những quy định khác nhau về qcd và qcn. Nghĩa là tương ứng với mỗi hệ thống xã hội, nhà nước có những quy định nhất định về qcd và qcn. Điều này bắt nguồn từ tính chung và tính riêng của qcn.

Tính phổ biến của qcn là một giá trị chung được Hiến chương Liên hợp quốc (1945); Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (1948) và Công ước quốc tế về qcn công nhận. Đặc thù của qcn là các quy định của pháp luật quốc gia về qcd và qcn do cơ quan lập pháp quyết định. Ngày 28 tháng 11 năm 2013, Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014). Điều đáng chú ý là so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới về nội dung và công nghệ lập hiến. Thể hiện rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất dân chủ và tiến bộ của nhà nước Việt Nam. Ví dụ, hiến pháp năm 2013 dành Chương II để nói về qcn, quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong chương này, tất cả các tiêu chuẩn dân sự, chính trị, kinh tế xã hội và văn hóa được xác định rõ ràng và phù hợp với các công ước quốc tế về kiểm soát chất lượng.

Về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều 4 (Hiến pháp năm 2013) nêu rõ: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam , giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể đại biểu trung thành lợi ích dân tộc, chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, lực lượng lãnh đạo đất nước và xã hội; 2. Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ mật thiết với nhau. hết lòng vì nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân; 3. Các tổ chức đảng và đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. ”

Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa có quyền, vừa có trách nhiệm, chịu sự giám sát của nhân dân; hoạt động của tổ chức và cá nhân đảng viên trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, tuyệt đối không có chuyện chế độ ở Việt Nam “vi phạm nguyên tắc nhà nước pháp quyền”, không có chuyện “Điều 4 đặt Đảng ở vị trí siêu cường” như các thế lực thù địch, bọn cơ hội xuyên tạc.

Quyền và trách nhiệm cũng được xác định rõ ràng trong các công ước quốc tế về kiểm soát chất lượng. Trách nhiệm pháp lý theo các công ước này được hiểu là mọi người đều phải chịu các giới hạn luật định. Ví dụ, Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. của người khác ”. Điều 19 quy định: “1. Mọi người có quyền giữ ý kiến ​​riêng của mình mà không bị can thiệp; 2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận …; 3. Việc thực hiện các quyền này đòi hỏi những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Vì vậy, điều này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được pháp luật quy định và cần thiết để: a) tôn trọng quyền hoặc uy tín của người khác; b) bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội ”.

Cũng như các quy định của công ước quốc tế về qcn, hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định các quyền liên quan đến nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Điều 15 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; 2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; 3. Công dân có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội; quyền con người, quyền công dân và không được xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp pháp của quốc gia và của người khác.

Hiến pháp năm 2013 đã được thể chế hóa và các luật như Luật Báo chí, Luật An ninh mạng và các nghị định của chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng các dịch vụ Internet và thông tin trực tuyến đều đã đưa ra các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người thụ hưởng quyền. Ví dụ, Điều 4 Luật Báo chí đề cập đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của báo chí như sau: “Báo chí có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: a) Đưa tin trung thực nhà nước và thế giới phù hợp với lợi ích của mình. Nhà nước và nhân dân; … c) phản ánh, định hướng dư luận xã hội; là diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của mọi người.

Điều 9 Luật Báo chí 2016 quy định các hành vi bị nghiêm cấm: “1. Đăng tải, phổ biến thông tin nhằm vào Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: a) Xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận Chính quyền nhân dân… 2. a) Gây chia rẽ giữa các nhân dân và chính quyền nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; b) Gây thù địch, kỳ thị, chia rẽ, chia rẽ dân tộc, vi phạm quyền bình đẳng của cộng đồng dân tộc Việt Nam; c) Gây chia rẽ giữa các tín đồ tôn giáo. người không theo tôn giáo, tín đồ các tôn giáo, tín đồ tôn giáo và chính quyền nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, lễ hội; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; , chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hòa; 4. Xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành quả cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc ”…

Điều 4 Luật An ninh mạng năm 2018 quy định: “Nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng là: (1) Tuân theo Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; (2) Theo lãnh đạo Quốc gia thống nhất quản lý; … (3) Kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng … bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng ” … như Luật An ninh mạng , hãy coi việc đảm bảo rằng qcd và qcn là các nguyên tắc.

Đồng thời, Luật An ninh mạng nghiêm cấm các hành vi sau đây: “(1) Tổ chức, điều hành, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa dối, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện cán bộ chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (2) Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng và phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc … (3) Thông tin sai sự thật, gây hoang mang dư luận, …; (4) Mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin khiêu dâm, đồi trụy, tội ác; phạt tiền thuần phong, mỹ tục của dân tộc …; (5) Xúi giục, dụ dỗ (6) Sử dụng, lợi dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, hoặc vì lợi ích cá nhân ”(Điều 8). Vì vậy, có thể nói, hiến pháp và pháp luật Việt Nam đảm bảo hài hòa quyền và nghĩa vụ công dân, không có chuyện pháp luật Việt Nam vi phạm qcd, qcn như những người thoái hóa tư tưởng chính trị thường viết.

Các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị dùng thủ đoạn nào để xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày nay?

Ngày nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước không dễ dàng sử dụng lực lượng vũ trang để cai trị nước ta như trong các cuộc chiến tranh xâm lược trước đây. Chúng chỉ có thể đạt được thông qua các chiến lược “mềm”, bắt đầu bằng “diễn biến hòa bình” (dbhb).

Trên thực tế, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và sự sụp đổ của các chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu là chiến lược “thâm nhập” ý thức hệ do chủ nghĩa đế quốc thực hiện. Phương Tây “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” vào nước xã hội chủ nghĩa. Khi Liên Xô cải tổ hệ thống chính trị, thực hiện chế độ dân chủ đa đảng, các thế lực thù địch bên trong và bên ngoài thống nhất lật đổ sự lãnh đạo cầm quyền của CPSU.

Rút kinh nghiệm đánh đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch và bọn cơ hội chủ trương thực hiện chiến lược dbhb chống lại các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Việt Nam. Một trong những mục tiêu của chiến lược là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong. Thủ đoạn của chúng là sử dụng Internet và mạng xã hội để tung tin xuyên tạc bản chất của hệ thống xã hội Việt Nam, thổi phồng những mặt tiêu cực của xã hội, làm suy thoái tư tưởng chính trị. và công chức, giảm dần lòng tin của nhân dân, cán bộ, đảng viên vào chế độ xã hội và đảng … con đường biến xã hội hiện hữu thành tbcn.

Trong những năm gần đây, họ còn nổi dậy chống phá chế độ, đóng vai “những người yêu nước” để vận động quần chúng và gây rối trật tự công cộng bằng những chiêu “bất tuân dân sự”. Điển hình là trường hợp của tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An năm 2014-2015 xảy ra các cuộc biểu tình phản đối Formosa Plasma Hà Tĩnh gây ô nhiễm môi trường. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thành quả của hơn 70 năm cách mạng của dân tộc Việt Nam, đã trả giá bằng sự hy sinh, xương máu, tài sản và sức lực của không biết bao nhiêu là đồng bào, chiến sĩ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã trở thành nếp sống, nếp sống, văn hóa của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, người dân Việt Nam sẽ không bao giờ khoan nhượng với bất cứ ai từ chối thành tích này với bất cứ lý do gì.

Tiếng Thái cao của Đức

(Nguồn: qĐnd)

(1) “Tại sao tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu ở Mỹ quá thấp?”, BBC News, ngày 31 tháng 10 năm 2016.

(2) v.i.lenin toàn tập, Báo chí Chính trị Quốc gia, t.38, tr.41.

(3) Hồ Chí Minh Toàn tập, tr.5. ctqg Press, Hà Nội, 2000, tr. 698.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button