Hỏi Đáp

Bệnh học thể thủy tinh – Bệnh viện Quân Y 103

1. Sơ lược về giải phẫu thủy tinh thể.

Thấu kính (tiếp theo) là thấu kính hai mặt lồi rõ ràng với độ hội tụ xấp xỉ 20d (khi không điều chỉnh). Trong nhãn cầu, võng mạc nằm sau mống mắt và trước thể thủy tinh (Hình 1.1). Phần trước và phần xích đạo của võng mạc tiếp xúc trực tiếp với thủy dịch, và mặt sau nối với màng hyaloid phía trước bằng các dây chằng Wierger. TTT nối với thể mi bằng hệ thống dây chằng zinn xếp thành nan và bắt nguồn từ các nếp gấp của thể mi và nối với đường xích đạo, bao trước và bao sau. Các dây chằng zinnia của người già giãn ra, các sợi xích đạo biến mất, lớp trước và lớp sau tách rời nhau. Ttt phát triển liên tục trong suốt cuộc đời của nó, lúc mới sinh có đường kính 6,4mm, dày 3,5mm, nặng khoảng 90mg. Một con ttt trưởng thành có đường kính khoảng 9mm, dày 5mm ở trung tâm và nặng khoảng 255mg.

Bạn đang xem: Thể thủy tinh của mắt là gì

Các cấu trúc bao gồm nang, biểu mô dưới bao, vỏ não và nhân thủy tinh thể. Tế bào biểu mô phía sau bao trước hoạt động trao đổi chất, sản sinh ra các tế bào mới. Các tế bào này dần dần biệt hoá, dài ra và mất các bào quan để tạo thành sợi ttt. Các sợi này bị nén và tập trung về phía trung tâm ttt, và sợi càng già thì càng gần tâm. Những sợi tơ lâu đời nhất được sinh ra trong phôi thai hiện diện ở trung tâm ttt để tạo thành nhân thai, và những sợi tơ này được sinh ra trong giai đoạn dậy thì và trưởng thành để tạo thành nhân trẻ sơ sinh và người lớn. nhân trưởng thành. Các sợi ttt mới được sinh ra ở lớp ngoài cùng tạo thành vỏ não (cortex).

2. Đục thủy tinh thể lâm sàng

Đục thủy tinh thể là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Theo kết quả của một cuộc điều tra nhanh (bệnh dại) được thực hiện tại Việt Nam năm 2007, bệnh đục thủy tinh thể dẫn đến mù lòa. Đục thủy tinh thể chiếm 66,1% số người trên 50 tuổi, gây mù cả hai mắt. Trong số đó, đục thủy tinh thể do tuổi tác là nguyên nhân phổ biến gây giảm thị lực ở người cao tuổi. Cơ chế bệnh sinh của đục thủy tinh thể do tuổi già là không rõ ràng.

2.1. Kiểm tra bệnh nhân đục thủy tinh thể

2.1.1. Lịch sử truy vấn

Bệnh nhân đến phòng khám thường bị giảm thị lực, đặc biệt là nhìn xa. Thường ở giai đoạn đầu, người bệnh sẽ thấy điểm đen trước mắt di chuyển theo cử động mắt. Một số người lớn tuổi thấy giảm số lượng kính đọc sách hoặc nhận thấy thị lực gần tốt hơn do bệnh xơ cứng hạt nhân, làm tăng công suất khúc xạ của thủy tinh thể và dẫn đến cận thị nhẹ hoặc trung bình. Bệnh nhân đục thủy tinh thể thường phàn nàn về ánh sáng chói khi đối diện với đèn pha hoặc điều kiện ánh sáng tương tự vào ban đêm.

2.1.2. Phương pháp thi

Có thể phát hiện đục thủy tinh thể bằng ánh sáng thông thường, kính soi đáy mắt và đặc biệt là đèn khe của kính hiển vi. Một máy giãn đồng tử được yêu cầu để kiểm tra tình trạng của thủy tinh thể trên quy mô rộng hơn. Khi nhìn vào đồng tử, nếu thủy tinh thể còn trong thì ta thấy có màu hồng. Nếu thể thủy tinh nói riêng và môi trường trong suốt nói chung có các điểm mây, vệt đen sẽ xuất hiện trên nền ánh sáng màu hồng đồng tử. Dựa vào sự di chuyển của vị trí sọc đen khi mắt di chuyển, chúng ta có thể xác định được vị trí bị mờ. Kiểm tra bằng đèn khe trên kính hiển vi có thể hiểu chi tiết về vị trí của thủy tinh thể, mức độ mờ và đánh giá ban đầu về độ cứng của thủy tinh thể.

2.2. Phân loại Đục thủy tinh thể

2.2.1. Phân loại căn nguyên của đục thủy tinh thể

– Đục thủy tinh thể do tuổi già: Đây là nguyên nhân phổ biến gây mất thị lực ở người cao tuổi, với tỷ lệ mắc bệnh đục thủy tinh thể ở người lớn là 50% trong các nghiên cứu ở Hoa Kỳ. Nhóm 65-74 tuổi, 70% người trên 75 tuổi. Với tuổi tác, các protein trong thủy tinh thể trải qua các biến đổi hóa học và ngưng tụ thành các protein có trọng lượng phân tử cao. Sự kết tụ protein này gây ra sự thay đổi chiết suất của thủy tinh, làm phân tán ánh sáng và giảm độ trong suốt. Các biến đổi hóa học trong protein của thủy tinh thể cũng tạo ra ngày càng nhiều sắc tố, làm cho thủy tinh thể bị đổi màu (vàng, nâu, đen …). Những thay đổi khác bao gồm giảm nồng độ glucose và kali, tăng nồng độ natri và canxi, và tăng hydrat hóa. Có 3 dạng chính của đục thủy tinh thể do tuổi già: dạng karyotype, dạng vỏ não và dạng mờ đục dưới bao sau.

– Đục thủy tinh thể bệnh lý:

+ Đục thủy tinh thể là hậu quả của một số bệnh về mắt hoặc toàn thân. Ví dụ như đục thủy tinh thể sau viêm màng bồ đào, đục thủy tinh thể do đái tháo đường, hạ calci máu… Đục thủy tinh thể có những đặc điểm khác nhau tùy theo nguyên nhân.

+ Đục thủy tinh thể do thuốc: Một số thuốc sử dụng lâu dài trên lâm sàng có thể gây đục thủy tinh thể như: corticosteroid, phenothiazin, amiodaron … Thường gặp nhất là đục bao sau do sử dụng corticosteroid lâu dài. Đục thủy tinh thể có thể do sử dụng corticoid theo các đường khác nhau: dùng toàn thân, tại chỗ, dưới kết mạc, quanh mắt, và xịt mũi.

+ Đục thủy tinh thể do chấn thương: Có thể do vỡ nang làm nước thấm vào thủy tinh thể, có thể đục ngay sau chấn thương, hoặc có thể do tổn thương vi thể của thủy tinh thể dẫn đến rối loạn chuyển hóa dẫn đến mờ thủy tinh thể. Tinh trùng vẩn đục sau một thời gian dài.

+ Hội chứng bong da giả: biểu hiện ở một hoặc cả hai mắt, thường gặp ở bệnh nhân lớn tuổi (trên 70 tuổi). Khi khám lâm sàng, thường thấy các vảy màu trắng xám dọc theo bờ đồng tử và ở mặt trước của bao thủy tinh thể. … Ở những bệnh nhân này, đồng tử thường kém hoặc không giãn và có thể kèm theo sự suy yếu của hệ thống treo thủy tinh thể, dẫn đến dịch kính một phần hoặc toàn bộ và nhãn áp tăng cao. Đây đều là những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến tiên lượng của ca mổ đục thủy tinh thể. Thuốc giãn đồng tử trước phẫu thuật nên được sử dụng để kiểm tra nhãn áp và tình trạng đĩa thị giác để phát hiện các tổn thương đồng thời của bệnh tăng nhãn áp. Tiền phòng càng nông và độ giãn đồng tử càng nhỏ thì tiên lượng phẫu thuật càng khó và khả năng xảy ra biến chứng dẫn lưu dịch kính trong mổ và phản ứng viêm sau mổ càng lớn.

+ Đục thủy tinh thể bẩm sinh: do phôi thai phát triển không bình thường

+ Các nguyên nhân hiếm gặp khác của bệnh đục thủy tinh thể: điện giật, bỏng, nhiễm kim loại, phóng xạ …

2.2.2. Phân loại hình thái của bệnh đục thủy tinh thể.

– Đục thủy tinh thể nhân: là tình trạng vẩn đục ở trung tâm của não mà nhân trung chuyển sang màu vàng, sau đó vàng nâu, nâu, đen nâu. Mức độ xơ cứng và màu sắc của nhân trung tâm và ánh đồng tử được quan sát dưới kính hiển vi đèn khe. Dạng mờ đục này thường tiến triển từ từ, mất thị lực dần dần. Ở giai đoạn đầu do lượng ttt khai thác tăng lên nên mắt bị cận thị, giai đoạn sau nhìn xa và nhìn gần đều bị mờ. Đục thủy tinh thể thường cứng và không cân xứng với mức độ thị lực.

– Đục thủy tinh thể vỏ não: Còn được gọi là đục thủy tinh thể hình nêm, do lớp vỏ bên ngoài bị đục. Có thể đục cả vỏ sau hoặc vỏ trước, tùy theo vị trí đục mà ảnh hưởng đến chức năng thị giác ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, sứt môi dễ tiến triển nhanh dẫn đến giảm thị lực sớm nên độ cứng của ttt lúc mới mổ thường không cao.

– Đục thủy tinh thể dưới bao sau: Phổ biến hơn ở thanh niên so với các dạng đục thủy tinh thể khác. Điểm mờ nằm ​​ở phía sau vỏ não dưới, ngay trên trục thị giác nên bệnh nhân có cảm giác chói mắt dưới ánh sáng, thị lực giảm nhiều không tương xứng với mức độ mờ đục.

– Độ mờ đục hỗn hợp: Một bệnh nhân có thể gặp một số độ mờ đục khác nhau.

– Một catact trưởng thành có 2 dạng hoàn toàn không trong suốt.

Đục thủy tinh thể vỏ não hoàn toàn: Toàn bộ vỏ từ nang đến nhân đều có màu trắng nên còn được gọi là đục thủy tinh thể trong ống nghiệm. Ở thể này, nhân thường không cứng lắm, nhưng trong phẫu thuật siêu âm thì bao sau dễ bị rách do thiếu vỏ đệm. Trong những trường hợp nghiêm trọng hơn, vỏ não hóa lỏng, khiến nhân trung tâm bị chìm xuống, được gọi là đục thủy tinh thể vỏ não tăng sản hoặc đục thủy tinh thể morgagnian.

– Đục thủy tinh thể trưởng thành nhân: Toàn bộ nhân trung tâm cứng, màu nâu sẫm và hầu như không có màng nhân nên còn được gọi là đục thủy tinh thể màu nâu (tan cataract). Đây là một dạng phẫu thuật siêu âm rất khó vì nhân rất cứng và khó mài, năng lượng siêu âm cao dễ làm tổn thương các bộ phận khác của mắt, có thể xảy ra biến chứng.

2.2.3. Phân loại theo độ cứng ttt của hạt nhân.

Đối với phẫu thuật siêu âm, độ cứng của nhân đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược và kết quả phẫu thuật. Buratto (1998) [11] chia thành 5 cấp theo kính hiển vi sinh học, màu nhân và độ sáng của đồng tử:

– Mức độ 1: Nhân mềm, đồng tử trong, sáng hồng. Thường gặp ở những người trẻ tuổi hoặc bị đục thủy tinh thể bẩm sinh, chấn thương.

– Lớp II: nhân mềm vừa phải, đồng tử màu vàng xanh, vàng nhạt

– Mức độ 3: Nhân cứng trung bình, màu vàng hổ phách, đồng tử xám nhạt.

– Mức độ iv: Đồng tử cứng, nâu, sẫm.

– Độ V: Nhân rất cứng, màu nâu sẫm hoặc đen, đồng tử sẫm màu.

3. Điều trị đục thủy tinh thể

3.1. Điều trị bằng thuốc

Cho đến nay, không có loại thuốc nào được chứng minh để làm chậm, ngăn ngừa hoặc chữa khỏi bệnh đục thủy tinh thể.

3.2. Phẫu thuật

3.2.1. Chỉ định phẫu thuật

Thường phụ thuộc vào mong muốn cải thiện chức năng thị giác của bệnh nhân. Do đó, việc quyết định tiến hành phẫu thuật còn phải căn cứ vào hoàn cảnh cá nhân và xã hội của bệnh nhân, hoặc tình trạng suy giảm thị lực hiện tại có gây khó khăn trong công việc và sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân hay không. bệnh nhân?

Hiện tại, có 3 lý do để đề xuất phẫu thuật đục thủy tinh thể

– Mức độ nghiêm trọng của bệnh: mức độ giảm chức năng thị giác do đục thủy tinh thể (thị lực) và các biến chứng có thể xảy ra của bệnh

– Nhu cầu của bệnh nhân: mong muốn cải thiện chức năng thị giác

– Kỹ thuật, thiết bị, phương pháp và kỹ năng của bác sĩ phẫu thuật

3.2.2. Khám tiền phẫu

– Lấy bệnh sử là điều quan trọng để xác định các tình trạng toàn thân và mắt có thể ảnh hưởng đến phương pháp phẫu thuật hoặc kết quả thị lực sau phẫu thuật. Tiền sử chấn thương hoặc viêm nhiễm đoạn trước hoặc bệnh tăng nhãn áp, bệnh lý dịch kính đều là những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phẫu thuật và chức năng thị giác sau mổ.

– Kiểm tra tính năng:

+ Thực hiện các phép đo thị lực, soi đáy mắt và kiểm tra bệnh kèm theo. Nếu thủy tinh thể bị mờ hoàn toàn, bạn sẽ cần kiểm tra ánh sáng bằng đèn pin hoặc sử dụng kính soi đáy mắt để đánh giá hướng của ánh sáng, và tầm nhìn màu sắc để ước tính mức độ tình trạng võng mạc.

+ Tăng nhãn áp được coi là nếu hướng ánh sáng thu hẹp về phía mũi. Nếu cảm thấy ánh sáng yếu hoặc mất khi ánh sáng ở phía trên, chúng tôi nghĩ đó là bong võng mạc ở phía dưới… Trong trường hợp này, phẫu thuật viên cần tiên lượng rõ ràng và giải thích cho bệnh nhân trước khi phẫu thuật.

– Các phép đo trước khi phẫu thuật: Cần thực hiện một số phép đo trước khi phẫu thuật để đặt IOL, bao gồm:

+ Đo diop giác mạc: Tính thể tích ống kính nội nhãn thích hợp dựa trên số đo diop giác mạc và chiều dài trục nhãn cầu.

+ Siêu âm đo chiều dài trục nhãn cầu: sử dụng siêu âm a. Trong trường hợp mờ hoàn toàn, để đánh giá tình trạng đoạn sau cần thực hiện siêu âm b. Phương pháp đo chiều dài nhãn cầu tốt nhất. là phương pháp “ngâm”.

– Khám thực thể: Trước khi phẫu thuật, phẫu thuật viên cần khám toàn bộ nhãn cầu để tiên lượng phẫu thuật.

+ Khám giác mạc: Bất kỳ tình trạng viêm giác mạc hoạt động, loét sau giác mạc, hoặc lắng đọng viêm là những chống chỉ định tạm thời đối với phẫu thuật thay thủy tinh thể.

+ tiền phòng: Cần đánh giá độ sâu tiền phòng trước khi phẫu thuật. Tiền phòng nông là dấu hiệu của bệnh đục thủy tinh thể giãn hoặc bệnh tăng nhãn áp góc đóng. Nếu chiều sâu tiền phòng không đồng đều, hãy nghĩ đến đục thủy tinh thể quá phát hoặc lệch thể thủy tinh.

+ đồng tử: Kiểm tra xem mép đồng tử có dính vào bao trước thủy tinh thể không? Thuốc giãn đồng tử nên được sử dụng để đánh giá khả năng giãn nở của đồng tử, đánh giá độ mờ đục của dịch kính và kiểm tra bệnh giả nang đồng thời để dự đoán những khó khăn có thể xảy ra trong quá trình phẫu thuật.

+ Thủy tinh thể: Mức độ mờ đục, hình thái, vị trí độ mờ đục và độ cứng của thủy tinh thể được đánh giá bằng cách kiểm tra quang học, bằng soi đáy mắt và tốt nhất là bằng kính hiển vi. Đặc biệt, cần đánh giá sự treo dịch kính của hệ thống dây chằng zinn.

+ Rối loạn mắt liên quan đến đục thủy tinh thể:

. Tăng nhãn áp: Cần hạ nhãn áp thích hợp trước khi phẫu thuật, và tiên lượng nên được giải thích chi tiết cho bệnh nhân. Bệnh tăng nhãn áp có thể được điều trị bằng phẫu thuật đối với bệnh đục thủy tinh thể và lỗ rò cùng một lúc hoặc theo hai giai đoạn.

. Viêm màng bồ đào: Viêm não cần được điều trị ổn định trước khi phẫu thuật đục thủy tinh thể. Cần điều trị chống viêm tích cực sau phẫu thuật để ngăn ngừa tái phát viêm màng bồ đào.

. Cận thị nặng: Thường ở những trường hợp cận thị nặng, hệ thống treo thể thủy tinh thường yếu và dễ bị vỡ, thể thủy tinh có xu hướng bị loãng và thoát ra ngoài dễ dàng trong quá trình phẫu thuật. Ngoài ra, thoái hóa màng mạch do cận thị nặng có thể hạn chế nhiều chức năng thị giác sau phẫu thuật. Trong những năm gần đây, với những ưu điểm tuyệt vời của phương pháp điều trị thủy tinh thể, phương pháp phẫu thuật đục thủy tinh thể đã được đề xuất, đặt kính nội nhãn sớm không chỉ điều trị được đục thủy tinh thể mà còn có thể điều chỉnh cận thị bằng cách thay kính nội nhãn phù hợp với thể tích mắt của bệnh nhân.

. Bong võng mạc: Theo kết quả khám lâm sàng, soi ánh sáng, siêu âm b và điện não đồ để quyết định có nên mổ đục thủy tinh thể hay không?

3.2.3. Chuẩn bị cho bệnh nhân trước khi phẫu thuật

Bệnh nhân cần được chuẩn bị đầy đủ. Cần phải khám trước khi phẫu thuật toàn thân và mắt, chẳng hạn như đo huyết áp, khám tim phổi, tai mũi họng, răng hàm mặt, v.v. Trong mắt, nhãn áp được đo và ống dẫn nước mắt bị đỏ. Về mặt tâm lý, lợi ích của phẫu thuật, rủi ro có thể xảy ra trong và sau phẫu thuật, tiên lượng sau phẫu thuật cũng phải được giải thích đầy đủ cho bệnh nhân …

Nhãn khoa: 1 ngày trước khi phẫu thuật, kháng sinh ´ 4 lần một ngày, 4 lần 2 giờ trước khi phẫu thuật

1 giờ trước khi phẫu thuật: Thuốc giãn đồng tử (mydiacin + neoosynephrine) và thuốc chống viêm không ở vỏ não (để chống co thắt đồng tử khi phẫu thuật) ´ 3 lần, cách nhau 15 phút.

Bệnh nhân được cho uống thuốc hạ huyết áp (diamox 0,25g´2 viên) và thuốc an thần (nếu cần) 1 giờ trước khi phẫu thuật. Đối với nhiễm trùng một bên hoặc nghi ngờ, nên cấy vi khuẩn trước phẫu thuật.

3.2.4. Phương pháp phẫu thuật đục thủy tinh thể:

Phẫu thuật nội nang : Toàn bộ thủy tinh thể bên trong và nang của nó được loại bỏ.

+ Chỉ định: Ngày nay, phẫu thuật cắt dịch kính ngoài bao đã thay thế gần như hoàn toàn phương pháp cắt thủy tinh thể trong bao do ít biến chứng hơn và bảo tồn được thể thủy tinh để tránh tổn thương thêm. Đặt thủy tinh thể nhân tạo. Phẫu thuật đục thủy tinh thể trong bao chỉ được chỉ định đối với những trường hợp lệch nhiều thể thủy tinh.

+ Chống chỉ định: Đục thủy tinh thể ở trẻ nhỏ và các trường hợp đục thủy tinh thể do chấn thương với vết rách lớn bao hàm.

Phẫu thuật bao ngoài : Nhân tủy và toàn bộ nang thủy tinh thể được phẫu thuật cắt bỏ qua một lỗ mở ở trung tâm của bao trước và nắp sau được giữ cố định. Phương pháp này có nhiều ưu điểm hơn so với phương pháp phẫu thuật thay thủy tinh thể. Một bao sau nguyên vẹn tại chỗ sẽ cung cấp một vị trí giải phẫu tốt cho việc cố định IOL. Không chỉ vậy, phương pháp phẫu thuật lấy dịch kính ngoài bao còn làm giảm đáng kể các biến chứng sau mổ, đặc biệt là các biến chứng như tăng nhãn áp, phù hoàng điểm, bong võng mạc.

+ Chỉ định: Dùng cho tất cả các loại đục thủy tinh thể trừ trường hợp chống chỉ định.

+ Chống chỉ định: Những trường hợp có dịch kính yếu hoặc không còn nguyên vẹn, hoặc những trường hợp tổn thương xuyên thấu nghi ngờ rách bao sau.

+ Quy trình phẫu thuật:

-Chuẩn bị: Kích thước của vết rạch phụ thuộc vào kích thước của thể thủy tinh.

– Mở nang trước: Trước khi rạch, phẫu thuật viên dùng kim hoặc kẹp để xé bao qua một đường rạch nhỏ vào tiền phòng, từ đó mở một cửa sổ ở trung tâm của bao trước. Đường kính của vòng chia khoảng 6mm-6,5mm. Độ sâu khoang trước được duy trì bằng nước hoặc chất nhầy (nhớt).

Sau khi mở viên nang, bác sĩ phẫu thuật cô lập các hạt nhân bằng cách sử dụng một ống tiêm chứa đầy khoảng 3 ml dung dịch bss. Nước tiêm vào có tác dụng tách vỏ thủy tinh thể ra khỏi bao sau thủy tinh thể, tách nhân cứng và nhân mềm.

– Thủy tinh thể bao quanh nhân được tráng bằng kim hai nòng và chọc hút, chỉ để lại nhân cứng.

– Cắt bỏ thủy tinh thể: Vết rạch đủ rộng để thủy tinh thể có thể trượt ra ngoài một cách an toàn.

– Vị trí đặt ống kính: Sử dụng các kẹp để đặt ống kính vào trong nang thủy tinh thể.

– Vết mổ đã đóng

Phacoemulsification : Về bản chất là một phẫu thuật ngoài bao, nhưng phẫu thuật được thực hiện thông qua một vết rạch nhỏ và khoang trước luôn được đóng lại. Như vậy sẽ an toàn hơn, vết mổ liền sẹo nhanh chóng, giảm loạn thị sau mổ, thị lực phục hồi nhanh, rất tốt và ổn định. Các đường rạch tiền phòng có thể được thực hiện thông qua một đường hầm mạc nối hoặc giác mạc. Kích thước vết rạch ban đầu là 2,8mm, đủ để đưa đầu dao siêu âm vào tiền phòng.

Nguyên tắc chung của phương pháp này là sự rung động của đầu siêu âm tạo ra các vết nứt trên vật liệu thủy tinh gần đầu nhọn, các phần bị cắt và nứt sau đó được hút đi qua ống nhỏ này.

Quá trình làm sạch và hút thể thủy tinh được thực hiện bằng hệ thống bơm tự động bên trong máy. Vì phẫu thuật nhắm mắt nên độ sâu tiền phòng luôn ổn định và thể thủy tinh đã được tách ra khỏi nang thủy tinh thể, giúp cho quá trình phẫu thuật diễn ra dễ dàng và an toàn hơn. Một ống kính nội nhãn mềm hoặc cứng được đặt chắc chắn trong bao thủy tinh thể. Vết mổ sẽ đóng lại và thủ thuật sẽ được thực hiện mà không cần khâu hoặc chỉ với một mũi khâu.

Tuy nhiên, để đảm bảo cho quá trình hoạt động diễn ra suôn sẻ, bao trước dịch kính thường bị rách liên tục. Còn kỹ thuật phá nhân cứng của thủy tinh thể mà không làm tổn thương các bộ phận khác: nang thủy tinh thể, giác mạc… cần có thời gian thực hành và khác nhau ở mỗi bác sĩ. Trong những ngày đầu, siêu âm nội soi có thể kém hiệu quả hơn so với phẫu thuật cắt bao quy đầu truyền thống, nhưng sau một thời gian làm quen, kỹ thuật này thường cho kết quả khá tốt.

4. Các biến chứng trong và sau khi phẫu thuật đục thủy tinh thể

+ Phù giác mạc : Trong vài ngày đầu sau phẫu thuật, viêm giác mạc do chấn thương phẫu thuật có thể xảy ra. Dấu hiệu này thường nhanh chóng biến mất sau khi nhỏ thuốc chống viêm vào mắt.

+ Chảy máu trước:

Chảy máu sau phẫu thuật từ vết mổ hoặc mống mắt trước, thường nhẹ, sẽ tự khỏi trong vài ngày. Máu có thể được tiêu hóa chậm hơn nếu lẫn trong dịch kính.

+ Phản ứng viêm : thường nhẹ, biểu hiện là dấu hiệu thổi tiền phòng vào ngày hôm sau sau khi phẫu thuật và thuốc chống viêm tại chỗ có thể nhanh chóng biến mất.

+ Đục thủy tinh thể dạng nang sau:

Đây là biến chứng thường gặp nhất sau phẫu thuật thay thủy tinh thể và thường do các tế bào biểu mô xâm lấn vào trung tâm của nang thủy tinh thể từ đường xích đạo. Khi độ mờ thứ phát của bao sau ảnh hưởng lớn hơn đến thị lực của bệnh nhân thì cần phải can thiệp bằng laser yag hoặc rạch phẫu thuật bao sau.

+ Lệch thủy tinh thể: là một biến chứng thường gặp, độ lệch chủ yếu ở mức độ nhẹ và thường ít ảnh hưởng đến chức năng thị giác

-Xơ hóa, co kéo rách bao: Trong thời gian hậu phẫu, các tế bào biểu mô thể thủy tinh phía sau bao trước sẽ tăng sinh xơ hóa và gây co kéo. Trong các tình trạng bệnh lý làm suy yếu dịch kính, đặc biệt trong hội chứng giả nang, sau chấn thương hoặc viêm võng mạc sắc tố …

Biến chứng này thường thường xuyên hơn và xảy ra ngay sau khi phẫu thuật. Có thể thực hiện cắt bỏ sớm 3 hoặc 4 điểm cách đều nhau ở rìa trước nang bằng laser yag.

5. Chăm sóc và theo dõi hậu phẫu

Ngày thứ hai sau ca mổ, bệnh nhân được thay băng, kiểm tra mắt, đo thị lực và nếu ca phẫu thuật diễn ra tốt đẹp thì có thể xuất viện.

Chèn dung dịch kháng sinh và corticosteroid x 4 lần / ngày trong 2 tuần đầu. Bạn có thể tiếp tục bôi dung dịch chống viêm không chứa glucocorticoid × 4 lần / ngày trong 1 tháng.

Người bệnh cần giữ vệ sinh mắt sạch sẽ, rửa nhẹ mi mắt bằng nước hàng ngày và bôi thuốc theo chỉ định của bác sĩ. Ngày đầu sau phẫu thuật, khi nhìn ánh sáng có thể bị chói mắt nên bệnh nhân có thể đeo kính màu sáng. Không cúi đầu hoặc mang vật nặng trong tháng đầu tiên

Sau phẫu thuật thay thể thủy tinh, đặc biệt là sau phẫu thuật siêu âm nội soi, người bệnh có thể vận động, đi lại ngay mà không cần nằm yên, ăn uống bình thường, cần đi khám định kỳ theo lịch hẹn của bác sĩ.

Tài liệu tham khảo:

  1. khóa học cơ bản và lâm sàng (1994 – 1995), “Section 11: Lenses and Cataracts”, American Academy of Ophthalmology, nguyen duc anh, ha duy tien.
  2. Buratto L., MD-P. Balbony, MD-R. Firrincieli, MD (2003), “Sự tiến hóa của phẫu thuật đục thủy tinh thể,” Nguyên tắc và Kỹ thuật Phacoemulsification, slack pp. 1-36.
  3. buratto l., Md – m. Zanini barboni, md – g., Savini, md (2003), “Phacoemulsification Technology”, Ultrasonic Technology, slack pp. 97 – 184.
  4. steinert r.f., md (1995) “Chương 12: Kỹ thuật Phacoemulsification”, Phẫu thuật Đục thủy tinh thể, ed. w. b. Sanders & Company, pp. 148-180.
  5. laroche l., Dan a. Montard of Le Bousson (1996), chirurge de la cataracte, masson
  6. guillaumat l., Paufique l., De Saint- martin, traitement chirurgical des oculaires, doin-deren et cie edition, France, 1971.

ts.bs. Nguyễn Đình Âm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button