Hỏi Đáp

Vai trò của con người và vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Với sự xuất hiện của triết học Mác, các vấn đề của con người đã được nhìn nhận, đánh giá và giải thích một cách sâu sắc, khoa học và toàn diện. đặc biệt là triết học Mác

Một phân tích rất đúng đắn và khoa học về thực trạng và vai trò của con người đối với sự phát triển xã hội. Vai trò quan trọng và không thể thay thế của con người trong quá trình phát triển lịch sử được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

Trước hết, bằng cách biến đổi thiên nhiên theo nhu cầu và mục đích của mình, đồng thời khách quan hóa sức mạnh vốn có của nó thông qua thực tiễn, con người đã tự khẳng định mình và thể hiện vai trò của mình trong việc thúc đẩy phát triển môi trường và xã hội. Nhờ kết quả của hoạt động lao động, con người không chỉ tiến một bước quan trọng, “tách” ra khỏi thế giới loài vật để trở thành con người thực sự, mà còn “tích cực tự nhân đôi một cách hiện thực” (1) Như Mác đã lập luận, Lê-nin cũng đã chỉ ra rằng con người là nhân tố quyết định, biến đổi thế giới bằng chính những hành động thiết thực của mình. Bằng cách tạo ra hệ thống khái niệm, phạm trù và sử dụng nó làm phương tiện nhận thức thế giới, quá trình không ngừng nâng cao hiểu biết và phản ánh thế giới khách quan cũng là quá trình kích hoạt năng lực tư duy thông qua trừu tượng hóa và khái quát hóa. , suy luận logic để nắm bắt các quy luật vận động và phát triển của thế giới.

Bạn đang xem: Vai trò của con người là gì

Trên cơ sở này, con người vận dụng sự hiểu biết và kiến ​​thức về thế giới vào các hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo thế giới và phục vụ lợi ích của mình. Chính con người từng bước nhận thức và phát hiện ra những thuộc tính, bản chất, quy luật và lực lượng của tự nhiên, vận dụng và sử dụng chúng để cải tạo tự nhiên theo mục đích của mình. Nhờ có con người mà thiên nhiên hoang dã trở thành thiên nhiên nhân tạo, thế giới tự nhiên với bản chất con người có những đặc điểm mới, đến lượt nó, thiên nhiên cũng hòa nhập vào đời sống xã hội của con người như một thành tố tất yếu. Đồng thời, trong quá trình tác động vào giới tự nhiên, con người có thể hoàn thiện mọi phẩm chất về thể chất, trí tuệ, tình cảm và tâm lý, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn với tư cách là một thực thể thống nhất, giữa tự nhiên – sinh học và văn hóa – xã hội.

Hai là, do khả năng nhận thức và cải tạo thế giới, con người đã đóng vai trò chủ yếu là hoạt động sáng tạo lịch sử, làm cho lịch sử vận ​​động theo chiều hướng tiến bộ. Lịch sử loài người là lịch sử hoạt động của con người. Con người là chủ thể tích cực trong quá trình phát triển xã hội và sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Họ là chủ thể của các quan hệ kinh tế – xã hội và mọi giá trị tinh thần của xã hội. Theo quan điểm duy vật về lịch sử, sự phát triển của xã hội loài người đã (và sẽ tiếp tục) cuối cùng được quyết định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong cấu trúc của năng suất, con người không chỉ là một thành phần cơ bản, mà còn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng – kết nối các yếu tố khác để làm cho chúng hoạt động. Là một bộ phận cấu thành của năng suất, con người vừa là người sáng tạo, vừa là người “tiêu thụ” sản phẩm sản xuất, đồng thời là nguồn lực đặc biệt trong quá trình sản xuất. v.i.Lênin đã hoàn toàn đúng khi cho rằng “lực lượng sản xuất chủ yếu của nhân loại là công nhân, là người lao động” (2). Trên thực tế, lao động của con người không chỉ cải tạo tự nhiên, mà còn cải tạo chính con người và mối quan hệ giữa con người với con người. Ph.Ăngghen khẳng định: “Lao động là điều kiện chủ yếu và cơ bản của toàn bộ hoạt động sống của con người” (3). Vì vậy, con người và xã hội loài người tồn tại và phát triển không phải do một thế lực bí ẩn, vô hình nào đó từ bên ngoài tác động mà là do hoạt động sản xuất vật chất. Đồng thời, nó còn là cơ sở của các hoạt động đời sống tinh thần của con người.

Con người sử dụng sức lao động của mình (cả cơ bắp và trí óc) kết hợp với các công cụ và phương tiện sản xuất khác để tác động vào tự nhiên, làm biến đổi nó để đáp ứng nhu cầu của con người, bản thân và xã hội. Trong quá trình này, con người tiếp tục sáng tạo ra công cụ lao động mới, thay đổi phương thức sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải thay đổi quan hệ sản xuất lỗi thời và chính con người – với tư cách là chủ thể của quan hệ sản xuất – đã thiết lập những quan hệ này thông qua thực tiễn cách mạng của mình. Trình độ của lực lượng sản xuất, tương ứng đã tạo ra một trình độ mới của phương thức sản xuất và sự phát triển của xã hội. Trong một cuộc cách mạng xã hội, con người luôn là trung tâm và là lực lượng chiến đấu đẩy xã hội bước sang một giai đoạn phát triển mới ngày càng tiến bộ hơn. Đây là vai trò tích cực của nhân tố con người trong quá trình phát triển lịch sử, thông qua quá trình thay thế chính đáng hình thái kinh tế – xã hội này bằng hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn. Nói cách khác, thông qua quá trình này, con người sáng tạo và “viết nên” lịch sử xã hội loài người của chính mình.

Thứ ba, so với các nguồn lực khác để phát triển xã hội, vai trò của con người là quan trọng nhất, hơn nữa đây còn là nguồn lực vô tận. Như chúng ta đã biết, xã hội phát triển luôn đòi hỏi một hệ thống các nguồn lực khác nhau, như tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động … Trong hệ thống này, con người được thể hiện như một nguồn tài nguyên quý giá nhất. Tài nguyên vật chất phi con người đương nhiên cần thiết cho sự phát triển, nhưng là tài nguyên có hạn, có thể cạn kiệt, một số không tái tạo được, ngoài ra, chúng chỉ có thể thực sự nâng cao giá trị khi kết hợp với tài nguyên con người. Đồng thời, tiềm năng nguồn nhân lực là rất lớn. Đặc biệt trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, trí tuệ được coi là nguồn lực vô hạn, đồng thời lao động trí óc của con người có tác động quyết định đến năng suất, chất lượng lao động, con người trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất để phát triển bền vững.

Có thể thấy, nhân tố con người chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử phát triển của loài người. Một mặt, trong tất cả các nhân tố cấu thành chủ thể xã hội, con người luôn ở vị trí trung tâm, mặt khác, trong hệ thống động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội, con người là động lực cơ bản, quan trọng và quyết định nhất. lực lượng.

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, cũng có nhiều nhà tư tưởng lớn đã nhanh chóng nhận ra và luôn đề cao vai trò của nhân dân. Ví dụ, Ruan Cui đã từng ví sức mạnh của con người như nước. Vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê-nin nhằm kế thừa những giá trị cốt yếu của truyền thống tư tưởng dân tộc trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong quá trình biến đổi thế giới. Trong phương hướng của chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi nhân dân là vốn quý nhất. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, không có gì trên trời cao quý hơn sức dân, không có gì trên thế giới mạnh hơn sức mạnh đoàn kết toàn dân. Quan điểm này thể hiện niềm tin của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sức mạnh bất khả chiến bại và tuyệt đối của quần chúng nhân dân – những con người làm nên lịch sử của đất nước. Trên thực tế, những thắng lợi to lớn và những thành tựu vẻ vang của Cách mạng Việt Nam trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa luôn gắn với vai trò của quần chúng nhân dân và đường lối phát huy, sử dụng nguồn nhân lực đúng đắn, hiệu quả của Đảng.

Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, vai trò quan trọng của nguồn lực con người một lần nữa được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định và phát huy. Trong kế hoạch xây dựng đất nước của Đảng ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ rõ, con người là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển xã hội; phát huy sức mạnh tổng hợp đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của Đảng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một trong những yếu tố quyết định là chúng ta có tận dụng và khai thác thành công thế mạnh và cơ hội để vượt qua những thách thức, khó khăn không. Quá trình này có được thành lập hay không phần lớn phụ thuộc vào con người – nguồn lực nội sinh đóng vai trò quyết định và quan trọng nhất. Tất nhiên, nguồn lực nội sinh này cần được nuôi dưỡng, phát triển chất lượng và sử dụng hợp lý để phát huy hết tiềm năng và hiệu quả. Tuy nhiên, để điều này xảy ra, cần phải đánh giá đúng, toàn diện, khách quan về thực trạng nguồn nhân lực nước ta, từ đó có giải pháp phát huy sức mạnh của nguồn lực này. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đánh giá khái quát những hạn chế của nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, cụ thể là chất lượng của đội ngũ lao động và việc khai thác, sử dụng.

Việt Nam được biết đến là quốc gia đông dân nhất trong khu vực. Về con số, chắc chắn rằng nguồn nhân lực nói chung và lực lượng lao động của chúng ta nói riêng là rất phong phú. Đó là một thuận lợi nếu chúng ta biết tận dụng, sử dụng hợp lý, hiệu quả nhưng cũng là khó khăn, là áp lực rất lớn có thể kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nhìn chung, trong điều kiện hiện nay, số lượng lớn không còn là lợi thế cho lao động. Về chất lượng, bên cạnh những phẩm chất cần cù, khéo léo, … thì nguồn nhân lực của nước ta, đặc biệt là lực lượng lao động nhìn chung còn khá hạn chế và thiếu. Điều này được thể hiện ở thể chất, trí tuệ, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề và các mặt cơ bản khác. Tức là đến năm 2005, hơn 30 tỉnh, thành phố trong cả nước đã hoàn thành kế hoạch phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tuy nhiên, chất lượng trí tuệ của nhân tố con người không chỉ thể hiện ở trình độ học vấn, mà quan trọng hơn là trình độ chuyên môn kỹ thuật, được phản ánh bằng các chỉ tiêu như số lượng và chất lượng của lực lượng lao động được sử dụng để đào tạo. Theo số liệu điều tra hiện trạng lao động và việc làm năm 2004, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo của nước tôi còn rất lớn: 72%. Tỷ lệ lao động được đào tạo và cấp chứng chỉ trên thợ giỏi thấp hơn: 16,65%. Về đội ngũ trí thức, tính đến tháng 7 năm 2005, cả nước tôi có 2.339.091 người có trình độ cao đẳng trở lên, trong đó có hơn 18.000 thạc sĩ và gần 16.000 tiến sĩ, tiến sĩ khoa học tại chức. Trí thức kỹ thuật tập trung chủ yếu ở khu vực phi thương mại (71%), khu vực hành pháp (gần 22%) và khu vực doanh nghiệp (gần 7%) (4).

Phân tích sâu hơn sẽ phát hiện ra những mâu thuẫn khác, chẳng hạn như cơ cấu lực lượng lao động đã qua đào tạo ở các cấp phân bổ không đồng đều giữa thành thị và nông thôn, trung ương và địa phương, vùng miền, miền núi và đồng bằng. Trên thực tế, lực lượng lao động đã qua đào tạo, đặc biệt là lao động có trình độ cao, chủ yếu tập trung ở các cơ sở trung ương, các thành phố lớn hoặc các trung tâm kinh tế như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hồ Chí Minh … Đặc biệt, số lượng trí thức có trình độ từ tiến sĩ trở lên ở các vùng mất cân đối nghiêm trọng, vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ chiếm gần 90% số lượng chương trình tiến sĩ của cả nước (trong đó Hà Nội là 63,82%. và 19,33% tại Thành phố Hồ Chí Minh). Trong 6 vùng còn lại, vùng cao nhất chỉ chiếm dưới 4%. Tổng số tiến sĩ của vùng Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ chiếm 1% tổng số tiến sĩ của cả nước (5).

Mặt khác, trong số những người lao động được đào tạo bài bản, không phải ai cũng làm đúng nghề, những trường hợp làm việc trái ngành không phải là trường hợp cá biệt. Có thể nói, việc sử dụng lao động không hợp lý nói chung là lãng phí, nhưng việc sử dụng lao động đã qua đào tạo không hợp lý còn lớn hơn nhiều.

Vì vậy, đối với nước ta, để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý và có hiệu quả cần phải có một hệ thống các biện pháp đồng thời, trong đó cần tập trung vào các biện pháp chủ yếu sau:

Một mặt là phát triển mạnh mẽ giáo dục, đào tạo và công nghệ, phục vụ trực tiếp sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; mặt khác là xây dựng tiềm lực trí tuệ – cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Dân dốt là nước yếu, cây mười năm phải trồng, người phải trồng trăm năm” (6).

Trí thông minh là một trong những chỉ số quan trọng nhất để đo chất lượng của yếu tố con người, đặc biệt là trong thời đại công nghệ tiến bộ nhanh chóng, khoa học ngày càng trở thành một loại năng suất. Sản xuất trực tiếp và sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức hiện nay. Ngoài ra, cần quan tâm đến việc giáo dục đạo đức, lối sống của người dân, trước hết là thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước. Bởi xã hội hiện đại không chỉ cần những nhà chuyên môn, mà còn cần những công dân có phẩm chất cao quý, có tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, xã hội. Vì vậy, quan điểm của Đảng “giáo dục, đào tạo và công nghệ là quốc sách cao nhất” phải là tư tưởng chỉ đạo, được các cấp, các ban ngành, gia đình và xã hội quán triệt sâu sắc và nghiêm túc thực hiện. Nhìn chung, vừa có năng lực, vừa có chính trị liêm khiết, sức khỏe tốt, đời sống tinh thần phong phú là người đặt nền móng cho sự phát triển đất nước, phát triển nhanh và bền vững. Mặt khác, để phát huy hết vai trò của giáo dục – đào tạo trong đổi mới, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng lao động hợp lý, có hiệu quả. Đồng thời, phải kết hợp nâng cao trình độ dân trí với phát triển nguồn nhân lực đồng đều trong khu vực và xã hội; gắn chiến lược phát triển khoa học và công nghệ với nâng cao hàm lượng trí tuệ nhân dân. Bắt đầu từ nguồn nhân lực đảm bảo chất lượng, cần xây dựng và triển khai các phương thức, cơ chế để tạo điều kiện cho các nguồn lực này.

Thứ hai, cần quan tâm đến việc phối hợp lợi ích, lấy công bằng xã hội làm phương châm trong các chính sách, từng bước phát triển. Lợi ích chính là điểm mấu chốt và là một trong những động lực chính để phát huy nhân tố con người. Trong thực tiễn cách mạng trước đây, vì yêu cầu giải phóng dân tộc trở thành ưu tiên hàng đầu nên lợi ích của cả dân tộc phải đặt lên hàng đầu trong việc giải quyết mọi lợi ích. Tuy nhiên, trong thời kỳ đất nước yên bình, những nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân cần được tôn trọng và bảo vệ tốt hơn. Vì vậy, để phát huy vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp trẻ hóa đất nước, không thể không đặt ra vấn đề giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội và lợi ích của toàn xã hội. Và lợi ích lâu dài, giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần… Ngoài ra, chúng ta phải quan tâm và thực hiện hệ thống chính sách xã hội hướng tới con người. Đặc biệt, đảng và nhà nước cần xây dựng các chính sách bảo đảm công bằng xã hội, tạo điều kiện cho mọi người đều được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế, được tiếp cận bình đẳng với các dịch vụ, dịch vụ liên quan đến phát triển con người. Sự thay đổi về chất là quá trình tích lũy về lượng và trong những trường hợp chúng ta coi là sự đóng góp lớn nhất của năng lực cá nhân của mỗi cá nhân cho cộng đồng và xã hội.

Thứ ba, cần thiết lập và thực hiện cơ chế dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, tạo môi trường và điều kiện cần thiết để phát huy vai trò của nguồn nhân lực trong mọi lĩnh vực của xã hội. Chỉ khi thực sự làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân, nhân tố con người mới được phát huy và phát huy hết tác dụng. Để phát huy tinh thần hăng hái, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong các hoạt động, phải xây dựng và thực hiện cơ chế dân chủ, chú trọng hơn nữa dân chủ trực tiếp nhằm thực hiện các giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội. . Phát huy dân chủ không chỉ tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người đóng góp khả năng của mình cho xã hội, mà còn có ý nghĩa thúc đẩy việc thực hiện cơ chế phản biện xã hội mà trên tinh thần phản biện xã hội, lành mạnh, xây dựng và đề cao trách nhiệm công dân. Nói cách khác, thông qua quá trình dân chủ hóa, trí tuệ của toàn dân đã được huy động và đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội. Đó là lý do tại sao Hồ Chí Minh cho rằng dân chủ là chìa khóa chủ yếu của mọi vấn đề do thực tiễn cách mạng mang lại.

Tuy nhiên, thực hiện dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ cực đoan hoặc sử dụng “dân chủ” để chia rẽ Khối Đại đoàn kết, phá hoại đồng thuận xã hội. Với dân chủ trong đảng và dân chủ bộ máy nhà nước làm nòng cốt, chúng ta sẽ làm tốt công tác chỉnh đốn dân chủ ở cơ sở, tăng cường dân chủ, giải phóng mọi khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân, góp phần ổn định chính trị. ——Sự gắn kết, tạo điều kiện cho sự thành công của đổi mới.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã khôn ngoan dựa vào yếu tố con người để đạt được mọi thành công. Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, chúng ta luôn nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của nguồn nhân lực, coi đây là điểm tựa vững chắc, là điều kiện để chúng ta tiến lên công cuộc đổi mới đất nước. Việt Nam chiến thắng. Phát huy nguồn lực con người để phát triển xã hội là một vấn đề mang tính quy luật.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button