Hỏi Đáp

Bài 1: Xã hội học đô thị

Xã hội học đô thị là một trong những chuyên ngành của xã hội học (xã hội học nông thôn, xã hội học tội phạm, xã hội học luật, xã hội học gia đình …) và vẫn được coi là ngành học ra đời sớm nhất của xã hội học. Nó ra đời từ đầu những năm 1920 với quá trình công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa.

Do sự phát triển đô thị và tốc độ đô thị hóa nhanh chóng của các nước tư bản phương Tây, đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề đô thị, và trên cơ sở đó xã hội học đô thị ra đời, lấy tên là xã hội học đời sống đô thị hay xã hội học đô thị.

Bạn đang xem: Xã hội học đô thị là gì

Giờ đây, hầu hết mọi người đều biết khi họ ở trong thành phố, bởi vì thành phố đã xuất hiện ở nhiều vùng khác nhau. Tuy nhiên, để đạt được sự đồng thuận giữa các quốc gia và khu vực có cùng cách hiểu về thành phố là gì thì không thể có được. Ở Mỹ, các tiêu chí cho khu vực thành thị là dân số, trong khi ở Brazil, đó là chức năng chính trị và ở Việt Nam, các tiêu chí như dân số, mật độ dân cư và số lượng lao động đang hoạt động trong lĩnh vực này được sử dụng. Phi nông nghiệp …

Tóm tắt các số liệu trên, chúng tôi coi định nghĩa xã hội học về đô thị là một tổng thể không gian – xã hội, thể hiện sự tập trung thống nhất của các loại hình tổ chức xã hội cụ thể như sau: địa lý vật lý và điều kiện môi trường do con người tạo ra, với những điều kiện sau đặc điểm:

  • là nơi tập trung đông dân cư trên một lãnh thổ hạn chế
  • phần lớn dân cư làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp
  • là trung tâm kinh tế của vùng , chính trị, văn hóa, giáo dục……
  • Nơi hệ thống xã hội luôn căng thẳng

Như đã đề cập ở trên, mỗi quốc gia và khu vực nhìn nhận các thành phố khác nhau, do đó, có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại thành phố. Dưới đây chúng tôi đưa ra một số danh mục cơ bản nhất:

  • Được phân loại theo cấp hành chính, bắt đầu bằng thủ đô của một quốc gia nơi tập trung quyền lực cao nhất, thủ đô của một nhà nước hoặc một nước cộng hòa. Tiếp theo là thành phố trực thuộc trung ương, thành phố vùng, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn thuộc tỉnh.
  • Dựa trên một đặc điểm, phân loại theo đặc điểm tiêu biểu. Đặc thù nổi bật nhất (là đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của một vùng) được chia thành các loại hình đô thị như đô thị công nghiệp, đô thị du lịch, đô thị thương mại, đô thị nghệ thuật. ..
  • Theo số lượng dân cư, tuỳ theo số lượng dân cư của một khu vực, các loại thành phố sau đây được phân loại: thị trấn nhỏ có dân số trên 100.000 người đến dưới 500.000 người, thành phố có dân số từ 500.000 đến 1 triệu người.

Trên đây là phân loại chung, Việt Nam có phân loại theo tiêu chuẩn Việt Nam. Việt Nam hiện có 6 loại đô thị, đô thị đặc biệt. Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa, công nghệ, đào tạo, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế. Lao động phi nông nghiệp chiếm hơn 90% tổng số lao động, mật độ dân số bình quân 15.000 người / km2

  • Đô thị loại I có các chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, trung tâm giao lưu trong và ngoài nước, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội ở quốc gia trải dài trên lãnh thổ tỉnh hoặc cả nước. Lao động phi nông nghiệp chiếm hơn 85% tổng số lao động, mật độ dân số bình quân hơn 12.000 người trên một km vuông. Toàn tỉnh, một vùng liên tỉnh hoặc cả nước. Lao động phi nông nghiệp chiếm hơn 80% tổng số lao động, mật độ dân số bình quân trên 10.000 người / km2. vùng liên tỉnh có tác động đến kinh tế xã hội của một hoặc nhiều tỉnh Phát triển các vùng có vai trò xúc tác. Lao động phi nông nghiệp chiếm hơn 75% tổng số lao động, mật độ dân số bình quân hơn 8.000 người trên một km vuông.
  • 4 thành phố, chức năng trung tâm là tổng hợp hoặc đầu mối chính trị là kinh tế, văn hóa, công nghệ, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao thông của tỉnh, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của toàn tỉnh hoặc toàn tỉnh. Lao động phi nông nghiệp chiếm hơn 70% tổng số lao động, mật độ dân số bình quân hơn 6.000 người trên một km vuông.
  • 5 thành phố trực thuộc trung ương (640 người), các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và dịch vụ tổng hợp hoặc chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của một vùng hoặc cộng đồng. Lao động phi nông nghiệp chiếm hơn 65% tổng số lao động, mật độ dân số bình quân hơn 2.000 người trên một km vuông.

Lịch sử loài người đã trải qua ba cuộc cách mạng đô thị. Cuộc cách mạng đô thị đầu tiên xảy ra vào thời kỳ đồ đá mới, và rất khó xác định niên đại, nhưng theo các nhà sử học, nó diễn ra vào khoảng 8000 năm trước Công nguyên. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người xuất hiện một kiểu nhà mới khác với kiểu nhà truyền thống cách đây hàng chục nghìn năm, khi đó là một thị trấn nghèo chỉ có khoảng 600 người, tên là Jericho, nằm trong vùng đất chết. Biển ở nơi ngày nay là Israel ở phía bắc.

Cuộc cách mạng đô thị lần thứ hai bắt đầu ở Châu Âu và lan sang Bắc Mỹ. Cuộc Cách mạng Công nghiệp vào giữa thế kỷ 19 đánh dấu sự xuất hiện của các siêu đô thị, trung tâm công nghiệp khổng lồ và các thành phố vệ tinh. Ngoài ra, nó đã biến đô thị phong kiến ​​cát cứ thành một hệ thống liên hoàn phụ thuộc lẫn nhau, một hiện tượng xã hội đặc biệt nổi bật trong lịch sử phát triển của loài người.

Cuộc cách mạng đô thị lần thứ ba đã xảy ra trên khắp thế giới, bắt đầu từ khoảng những năm 1960, chủ yếu ở các nước kém phát triển hơn (các nước thuộc thế giới thứ ba) thuộc các nước Châu Á – Thái Bình Dương, và dân số thành thị của các nước này hiện chỉ chiếm tổng dân số. 30%. Các nước này là nước nông nghiệp lạc hậu và họ muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế để bắt kịp các nước tiên tiến.

Khi thảo luận về khái niệm đô thị hóa, có thể thấy đây là một khái niệm tương đối rộng, vì vậy khái niệm này được mô tả từ hai khía cạnh sau:

  • Trước hết, đô thị hóa là sự chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp thấp sang phi nông nghiệp thấp. Tức là, quá trình chuyển đổi hình thức cư trú từ nông thôn nghèo sang nơi ở mới văn minh cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành nghề từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp.
  • Thứ hai, đô thị hóa là một quá trình biến đổi liên tục. Có nghĩa là, ở những nơi đã đô thị hóa, quá trình đô thị hóa tiếp tục nâng cao chất lượng cuộc sống và diện mạo của thành phố.

Từ giữa thế kỷ XVI đến nay, đô thị hóa chủ yếu diễn ra theo chiều rộng. Tuy nhiên, do đặc điểm phát triển đô thị ở mỗi nước, mỗi vùng là khác nhau, nhưng về cơ bản có ba xu hướng: xu hướng bề rộng, xu hướng chiều sâu và xu hướng hội tụ.

  • Bề rộng của đô thị hóa là quá trình gia tăng số lượng, quy mô và dân số của các thành phố. Đây là xu hướng lớn ở các nước thế giới thứ ba, nơi cuộc cách mạng đô thị lần thứ ba đang diễn ra, đòi hỏi tốc độ phát triển và đô thị hóa ngày càng nhanh.
  • Đô thị hóa có những dấu hiệu định lượng về bề rộng, trong khi ở đây, những dấu hiệu về chất lượng lại tập trung. Với mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống, đa dạng hóa và phong phú các loại hình văn hóa. Các thành tựu khoa học công nghệ được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Quá trình này diễn ra ở các nước phát triển.
  • Xu hướng thứ ba – Sự hội tụ, tức là sự kết hợp của hai xu hướng trong cùng một thành phố, tức là sự kết hợp của các dấu hiệu định lượng và định tính trong cùng một thời gian và không gian. Một số nước đang phát triển cũng đang theo xu hướng này xu hướng, trong đó có Việt Nam.

3.2.3 Phong cách sống đô thị

Các đô thị là nơi sinh sống của nhiều nhóm người với nhiều nguồn gốc nhập cư khác nhau, vì vậy các đô thị có lối sống phức tạp và đa sắc tộc. Vì vậy, có thể nói lối sống đô thị là một thể không đồng nhất. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, ở thành thị luôn tồn tại những nhóm người có lối sống đa dạng sau đây:

  • Các nhóm thổ dân.
  • Các nhóm nhập cư mới từ các vùng khác nhau.
  • Một nhóm từ một quốc gia khác.
  • Những người thuộc các tôn giáo, chủng tộc, nghề nghiệp khác nhau …

Vì vậy, ở thành thị, khó có thể tìm thấy một lối sống thuần nhất như ở nông thôn. Tuy nhiên, các nhà khoa học quan sát thấy rằng mặc dù những quần thể này có nhiều điểm khác biệt, nhưng chúng có chung một số kiểu hành vi xã hội giống nhau do sống trong cùng một môi trường. Các nhà xã hội học gọi đó là quá trình quốc tế hóa lối sống đô thị.

Đô thị hóa là một quá trình tất yếu để một quốc gia hoặc khu vực tăng tốc phát triển và hội nhập vào nền kinh tế chung của thế giới. Nhưng, bên cạnh những mặt tích cực mà chúng ta không thể phủ nhận, quá trình này cũng mang đến những tiêu cực.

  • Yếu tố tích cực:
    • Có lực lượng lao động đa dạng. Kéo theo quá trình đô thị hóa là các luồng di cư, là nguồn lao động đa dạng trong môi trường đô thị. Có trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng – nghiệp vụ khác nhau. Vì vậy, ở góc độ khai thác, đây là một “mỏ”.
    • Đóng góp vào lối sống chủ động. Quá trình đô thị hóa dẫn đến một quá trình lựa chọn, ngoài sự lựa chọn về sức khỏe, độ tuổi, giới tính, nguồn nhập cư … mà còn có sự lựa chọn về trình độ, kỹ năng … vì mỗi cá nhân buộc phải nỗ lực vĩnh viễn. học hỏi, tiếp thu, sáng tạo … tất cả đều góp phần Tạo ra sự cạnh tranh trong cuộc sống của bạn, tạo nên một lối sống năng động và tích cực.
    • Đóng góp vào sự đa dạng văn hóa trong thành phố. Như đã nói ở trên, quá trình đô thị hóa đã tạo ra nhiều nhóm dân cư, mỗi nhóm lại có những nét khác biệt về văn hóa. Sự đa sắc tộc phức tạp này sẽ tạo nên một nền vật chất và tinh thần đa văn hóa.
    • Đóng góp vào sự phát triển cơ sở hạ tầng. Phải thực hiện quy hoạch đô thị, đường sá, trường học, bệnh viện, các dự án phục vụ dân sinh.
    • Trong một thời gian dài, có thể là mãi mãi, TP.HCM sẽ phải đối mặt với hai thách thức lớn là ùn tắc giao thông và ngập nước. Đó là hai ngôi mộ tử thần, hai điểm nhạy cảm nhất về tương lai của thành phố. Đây không chỉ là vấn đề của riêng TP.HCM mà còn của nhiều đô thị đang trong quá trình đô thị hóa và không chỉ riêng hai vấn đề trên.
    • Ô nhiễm môi trường. đô thị hóa. Đô thị hóa sẽ dẫn đến công nghiệp hóa. Ngày càng có nhiều trung tâm công nghiệp, tình trạng ô nhiễm rác thải, nước thải ngày càng nghiêm trọng đã kéo theo những tác động tiêu cực đến cuộc sống của người dân. Ngoài ra, còn có nồng độ ô nhiễm nước, ánh sáng, tiếng ồn và khói bụi cao. Đây là hồi chuông cảnh tỉnh cho một đất nước đang trong quá trình đô thị hóa.
    • Các huyết mạch giao thông đang bị tắc nghẽn. Dân số tăng nhanh, đồng thời phương tiện giao thông cá nhân ngày càng nhiều, trong khi cơ sở hạ tầng phát triển không đồng bộ. Bên cạnh đó, cũng cần nói đến ý thức tham gia giao thông của một số người dân đô thị còn quá thấp, hành lang pháp lý còn nhiều vướng mắc.
    • Bệnh đầu to. Đó là sự tập trung không cân đối giữa các vùng trong quá trình phát triển, mọi nguồn lực đều tập trung vào một vùng, còn các đô thị khác có xu hướng cạn kiệt. Như Mexico City, Jakarta, Sao Paulo, Brazil… Phát triển rất mạnh nhưng các vùng lân cận nghèo nàn, lạc hậu.
    • Ngoài ra còn có các vấn đề về nhà ở và việc làm, và sự gia tăng của các tế bào xã hội một cách hỗn loạn. Cũng sẽ có những khu ổ chuột, tệ nạn xã hội và sự phân cực giữa người giàu và người nghèo.

    Đô thị Việt Nam về cơ bản đã trải qua 5 giai đoạn kể từ khi hình thành và phát triển.

    • 1858 trở về trước (thời kỳ phong kiến).

    Một số thành thị xuất hiện trong thời kỳ này nhưng tiểu nông chưa tạo điều kiện cho kinh tế hàng hoá ra đời do nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp, bên cạnh quyền phong kiến ​​và chính sách “trọng dân”. nông dân, kìm hãm thương mại “, từ đó làm chậm sự ra đời và phát triển của các khu đô thị.

    • Trị vì (1858-1954). Thực dân Pháp buộc phải xây dựng cơ sở hạ tầng và thành phố để phục vụ mục đích cai trị và thuộc địa. Tuy chưa đầy đủ nhưng đây có thể coi là cơ sở cho sự khởi đầu của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam.
    • Năm 1955-1975. Đây là thời kỳ đặc biệt khi đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam Bắc. Đế quốc Nam Mỹ đã thiết lập hệ thống đô thị hiện đại nhất trong khu vực vào thời điểm đó. Một vấn đề mà các thành phố phía Nam phải đối mặt trong thời kỳ này là dân số quá đông.

    Miền Bắc chia làm hai giai đoạn, giai đoạn đầu từ năm 1955 đến năm 1964, là giai đoạn hoà bình, được sự giúp đỡ của một số nước, chúng ta đã xây dựng được hệ thống đô thị khá tốt. Tuy nhiên, sau đó Hoa Kỳ leo thang thành một cuộc tấn công vào miền Bắc, với những tổn thất nặng nề cho thành phố.

    Thời kỳ sau hòa bình được chia thành hai giai đoạn, 1975-1986, đô thị bị xuống cấp, quá trình đô thị hóa gần như đình trệ. Đất nước lâm vào bế tắc trầm trọng do suy thoái, bao vây cấm vận. Từ năm 1986 đến nay, đời sống xã hội và sự phát triển kinh tế đã diễn ra nhiều thay đổi. Do đó, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button