Hỏi Đáp

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Nền văn minh của con người cuối cùng phụ thuộc vào sự phát triển đúng đắn của các lực lượng sản xuất. Vì vậy, nó là môn học hết sức quan trọng nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của lực lượng sản xuất.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là thời kỳ thay đổi cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để. Từ xã hội cũ sang xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ đó bắt đầu khi giai cấp vô sản lên cầm quyền. Cách mạng vô sản thành công rực rỡ và kết thúc bằng việc xác lập nền tảng tư tưởng, chính trị và kinh tế của xã hội mới. Là thời kỳ xây dựng lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới hình thành quan hệ sở hữu mới.

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

Bạn đang xem: Quy luật quan hệ sản xuất là gì

1. Về phương thức sản xuất, năng suất và quan hệ sản xuất:

Một. Phương thức sản xuất là gì?

Sản xuất vật chất được thực hiện thông qua một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức mà con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở một giai đoạn nhất định của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Phương thức sản xuất có vai trò nhất định đối với mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Phương thức sản xuất chủ yếu là sự thống nhất giữa một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng.

b. Năng suất là gì?

Năng suất là mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất. Mức độ năng suất được phản ánh ở mức độ kiểm soát của con người đối với tự nhiên. Việc tạo ra của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của con người là kết quả của khả năng tác động thực tế của con người vào tự nhiên.

Về yếu tố cấu thành năng suất, có thể có những quan điểm khác nhau về các yếu tố khác của năng suất, nhưng cuối cùng đều được phản ánh ở hai bộ phận chính là tư liệu sản xuất và nhân lực. Tư liệu sản xuất là khách thể và con người là chủ thể.

Tư liệu sản xuất bao gồm hai bộ phận: đối tượng lao động và tư liệu lao động. Thông thường tư liệu lao động trong quá trình sản xuất còn được gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong bất kỳ nền sản xuất nào, công cụ sản xuất luôn giữ vai trò chủ đạo và là chỉ tiêu quan trọng nhất. Hiện nay công cụ sản xuất của con người không ngừng cải tiến và có xu hướng hoàn thiện, nhờ những thành tựu của khoa học công nghệ đã cho ra đời những loại máy công cụ hiện đại thay thế dần sức lao động của con người. Vì vậy, công cụ lao động sẽ luôn là thứ độc đáo nhất, mang tính cách mạng nhất của lực lượng sản xuất.

Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, công cụ sản xuất luôn là sản phẩm tổng hợp, đa dạng của tất cả các tổ hợp công nghệ được hình thành và liên quan đến quá trình sản xuất và phát triển của doanh nghiệp. nền kinh tế. Đó là sự tổng hợp của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó quan trọng và trực tiếp nhất là sự nhân lên của trí tuệ con người trên cơ sở kế thừa nền văn minh vật chất của đời trước.

Xem thêm: Năng suất là gì? Năng suất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay

Nước ta là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên và có nhiều nơi con người chưa từng đặt chân đến, nhưng nhờ sự tiến bộ của khoa học và công nghệ tiên tiến, con người có thể tạo ra những sản phẩm mới có ý nghĩa quyết định đến chất lượng cuộc sống và con người. văn minh giá trị của. Việc tìm kiếm một lực lượng lao động mới sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động của con người.

Tư liệu lao động, dù tinh vi, hiện đại đến đâu, tách rời khỏi con người, không góp phần thực hiện chức năng riêng của mình. Chính vì vậy mà Lê-nin đã viết: “Lực lượng sản xuất chủ yếu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động”. Người lao động có kinh nghiệm và thói quen lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Với tư cách là đối tượng của sức sản xuất, tư liệu sản xuất chỉ có thể đóng vai trò kết hợp với sức lao động của con người. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nêu rõ “sự nghiệp xây dựng kinh tế lấy con người làm trọng tâm, lấy vị trí trung tâm là gắn phát triển kinh tế với công bằng khoa học và tiến bộ xã hội”.

Là một bộ phận của năng suất xã hội, người lao động phải có sức khỏe, có kiến ​​thức văn hóa, có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm và thói quen tốt, tư cách đạo đức tốt, lương tâm nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Trước đây, chúng ta chưa biết cách phát huy và phát huy hết sức mạnh của nhân tố con người vì chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến tư cách của người lao động. Đúng là năng lực và kinh nghiệm sản xuất của con người phụ thuộc vào tư liệu sản xuất hiện có mà họ sử dụng. Nhưng công việc sáng tạo của họ đã thúc đẩy nền kinh tế.

c. Quan hệ sản xuất là gì?

Quan hệ sản xuất là một phạm trù triết học dùng để chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ tổ chức sản xuất và quản lý, quan hệ phân phối thành phẩm … Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng sự hình thành và phát triển khách quan không phụ thuộc vào ý chí của Mọi người.

Nếu khái niệm năng suất là mặt tự nhiên của sản xuất, thì quan hệ sản xuất là mặt xã hội của sản xuất.

Mối quan hệ sản xuất có ba khía cạnh:

+ Quyền sở hữu của người dân đối với tư liệu sản xuất chính (gọi là quyền sở hữu)

Xem thêm: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến ​​trúc thượng tầng

+ Mối quan hệ giữa những người tổ chức, quản lý các hoạt động xã hội và trao đổi với nhau (gọi tắt là quan hệ tổ chức quản lý).

+ Mối quan hệ giữa người với người trong quá trình lưu thông thành phẩm (gọi tắt là mối quan hệ lưu thông)

Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là quan hệ cơ bản, đặc trưng của mỗi xã hội. Quan hệ sở hữu quyết định mối quan hệ giữa tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm.

Trong quá trình cập nhật và củng cố quan hệ sản xuất, những vấn đề quan trọng được hội nghị nhấn mạnh là thực hiện đồng thời ba chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối. Chế độ sở hữu là cơ sở của quan hệ sản xuất. Như đã đề cập trước đó, nó là một đặc điểm để phân biệt không chỉ các quan hệ sản xuất khác nhau, mà còn cả các thời đại kinh tế khác nhau trong lịch sử.

– Thực tế lịch sử cho thấy rõ, cuộc cách mạng xã hội nào cũng có mục đích kinh tế là bảo đảm cho lực lượng sản xuất có điều kiện phát triển tiếp tục, đời sống vật chất được cải thiện và con người cũng được cải thiện. Đây là lịch sử tự nhiên của quá trình chuyển đổi giữa các hình thái kinh tế – xã hội trong quá khứ, lịch sử tự nhiên của thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.

-Đặc biệt trong một quan hệ sản xuất nhất định, bản chất của sở hữu cũng quyết định bản chất của quản lý và phân phối. Mặt khác, trong mọi hình thái kinh tế – xã hội nhất định, quan hệ sản xuất bao giờ cũng có vai trò chi phối đối với các quan hệ sản xuất khác, làm thay đổi chúng ít nhiều để chúng không những không đối kháng mà còn phục vụ có hiệu quả hơn. Sức mạnh của sự tồn tại và phát triển của các hệ thống kinh tế – xã hội mới.

Nếu trước đây không có sự chuyển đổi từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác mà hoàn toàn là một quá trình tiến hóa suôn sẻ, thì sự chuyển đổi từ hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa hoặc tiền tư bản sang chủ nghĩa cộng sản (cscn) Hình thái kinh tế của thời đại ngày nay không phải là một quá trình suôn sẻ. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin chưa bao giờ coi hình thái kinh tế – xã hội nào tồn tại từ trước đến nay là chuẩn mực nhất.

Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, bên cạnh những quan hệ sản xuất thống trị thường xuất hiện những quan hệ sản xuất lạc hậu, phụ thuộc, là tàn tích của xã hội cũ. Ngay cả ở các nước tư bản phát triển nhất cũng không chỉ có quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thuần túy. Tất cả những điều trên không chỉ có nguyên nhân từ sự phát triển không cân đối của lực lượng sản xuất giữa các nước mà còn giữa các vùng, các ngành khác nhau của một nước. Sự chuyển đổi từ quan hệ sản xuất lạc hậu lên quan hệ sản xuất trình độ cao hơn, như Mác đã nói: “Cho đến khi điều kiện vật chất cho sự tồn tại của các quan hệ này đã chín muồi thì không bao giờ có thể diễn ra được …” Phải có một thời kỳ lịch sử. Một lịch sử tương đối lâu dài có thể tạo ra những điều kiện vật chất nói trên.

Xem thêm: Tổng hợp Chủ nghĩa Mác-Lênin và Ứng dụng của Tổng hợp

2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:

Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay tương thích với nhau

Trong tác phẩm phê bình về kinh tế chính trị năm 1859, C.Mác đã viết: “Trong nền sản xuất xã hội mà con người sống, con người có những quan hệ nhất định không thể tránh khỏi và không phụ thuộc vào ý chí của họ, sự sản sinh ra những quan hệ. Những quy luật này phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất vật chất ở một mức độ nhất định … ”Người ta thường coi tư tưởng này của Mác là“ tư tưởng về quy luật quan hệ sản xuất . ”. “Và Mức năng suất”.

Cho đến nay, hầu như quy luật này đã được các nhà nghiên cứu triết học Mác khẳng định. Khái niệm “phù hợp” được hiểu là chỉ cái đúng là tốt mới hợp pháp, không phù hợp là không tốt là vi phạm pháp luật. Nhiều lĩnh vực đã đặt ra nhiều câu hỏi về từ “phù hợp”. Quan hệ sản xuất bao gồm nhiều hình thức khác nhau, nói chung là các dạng quan hệ sản xuất và các dạng lực lượng sản xuất hợp thành quan hệ chủ yếu. Mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.Nhưng mối quan hệ giữa hai yếu tố cơ bản này là gì? phù hợp hay không. Đồng thuận hay mâu thuẫn? Đầu tiên, xác định các khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau.

– Sự phù hợp là sự cân bằng, thống nhất giữa các mặt đối lập hay sự “yên ổn” giữa hai bên.

– Tính nhất quán là xu hướng mà các biến động không cân bằng sẽ đạt được.

Theo phép biện chứng, sự cân bằng là tạm thời và sự mất cân bằng là tuyệt đối. Đây là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Chúng ta biết rằng trong phép biện chứng, cái tương đối và cái tuyệt đối không thể tách rời, tức là giữa hai cái đó không có ranh giới xác định. Nếu bạn nhìn nó từ một góc độ khác, cân bằng có thể được hiểu là sự tĩnh lặng, và sự mất cân bằng có thể được hiểu là chuyển động. Tức là, cán cân sản xuất chỉ là tạm thời, và sự không phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Sự phát triển chỉ có thể được hình dung bằng cách thừa nhận chân lý vĩnh cửu của chuyển động. Tương tự như vậy, chỉ có thể dự kiến ​​sự phát triển nếu nhận thức được mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chừng nào người ta nhận thức được sự không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn tồn tại lâu dài. Sản xuất. họ.

Từ những lý thuyết này đến thực tế của đất nước chúng ta và quá trình phát triển lịch sử lâu dài của đất nước chúng ta từ thời kỳ đồ đá đến nền văn minh hiện đại. Nước ta phát triển từ chỗ không tương thích hoặc lạc hậu của nền văn minh cho đến nay. Tuy nhiên, quá trình vận động và phát triển của sản xuất là quá trình từ không phù hợp đến phù hợp, trạng thái phù hợp chỉ là tạm thời, phù du, ý chí tạo ra sự phù hợp vĩnh viễn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại. Không tự nhiên, phá hủy cái không thể phá hủy, đó là chuyển động.

Tóm lại, có thể nói thực chất của quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quy luật mâu thuẫn. Sự phối hợp giữa chúng chỉ là trục, chỉ là sự êm dịu nhất thời, còn vận động, biến động, mâu thuẫn là vĩnh cửu, và chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới có thể mô tả được động lực của sự phát triển. Luật Kinh tế.

Xem thêm: Phát triển là gì? Nguyên tắc phát triển của triết học Mác – Lênin?

3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:

Chúng ta đều biết rằng quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai bộ phận cấu thành của phương thức sản xuất, giữa chúng có mối quan hệ tác động biện chứng. Đẩy quan hệ sản xuất ra khỏi tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa. Căn nguyên của tư duy sai lầm này nằm ở căn bệnh chủ quan, tự nguyện, muốn nhanh chóng đạt được chủ nghĩa xã hội đồng nhất mà không tôn trọng quy luật triển vọng. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, coi trọng quan hệ sản xuất như một phản ứng đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này được biểu hiện ở chỗ “chuyên chính vô sản có thể chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển”.

Nhưng khi nói đến thực thi, người ta quên rằng “hoạt động” không đồng nghĩa với sự chủ quan độc đoán, và con người không được tự do tạo ra bất kỳ hình thức quan hệ sản xuất nào. Ngược lại, quan hệ sản xuất luôn bị quy định chặt chẽ bởi những điều kiện của lực lượng sản xuất, bởi tính chất và giai đoạn phát triển của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Chỉ khi quan hệ sản xuất được hoàn thiện một cách toàn diện thì chúng ta mới có thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển và giải quyết kịp thời mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.

+ Năng suất quyết định sự biến đổi của quan hệ sản xuất: Năng suất là sự biến đổi đầu tiên và không ngừng của sản xuất, con người muốn giảm bớt sức lao động nặng nhọc để tạo ra sức lực. Năng suất cao luôn phải tìm cách cải tiến công cụ làm việc. Tạo ra công cụ lao động mới. Sức lao động quy định sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất, khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm, thậm chí tiêu diệt lực lượng sản xuất và ngược lại.

+ Tác động ngược chiều của quan hệ sản xuất đối với năng suất. Một khi quan hệ sản xuất được thiết lập, nó có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành hệ thống và nền tảng xã hội, không thể đồng thời biến đổi với lực lượng sản xuất. So với lực lượng sản xuất thường lạc hậu, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất và tính chất của lực lượng sản xuất thì lực lượng sản xuất sẽ phát triển.

Nếu nó lạc hậu so với năng suất, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của năng suất, mặc dù là tạm thời. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến lực lượng sản xuất là do nó quy định mục đích sản xuất, hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý xã hội, cách thức phân phối, cách thức phân phối và của cải mà một phần lớn hơn hoặc ít hơn của dân số. Người làm việc. Vì vậy nó ảnh hưởng đến thái độ làm việc của tất cả mọi người. Tạo điều kiện để phân công lao động và hợp tác quốc tế hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ sản xuất, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ.

4. Những ứng dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới ở Việt Nam:

Một. Sai sót trong quy luật quan hệ sản xuất – năng suất trước đây

Hàng chục năm qua, trong quá trình đảng và nhà nước lãnh đạo, quản lý đất nước, thực tiễn cho thấy trong quá trình quán triệt, vận dụng các quy luật kinh tế và các quy luật kinh tế đều có những mặt được, chưa được và có những hạn chế. Quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất Trong thực tiễn nước ta mang đặc điểm của một nước nông nghiệp, nghèo nàn lạc hậu, năng suất thấp, trâu bò. Người cày có tiến, quản lý kém, tự cung tự cấp ít. Chủ yếu là tự túc. Mặt khác, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, đã trải qua hai cuộc chiến tranh, bị đế quốc Mỹ bao vây nhiều năm, bị cấm vận về nhiều mặt, nhất là về kinh tế.

Do đó, lực lượng sản xuất chưa sẵn sàng để phát triển. Sau khi lên nắm quyền, để đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế kém phát triển, nước ta đã sử dụng quyền lực về tư tưởng, chính trị để nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân, chuyển sang sở hữu công cộng dưới hình thức toàn dân và tập thể. Thời đại đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định tính chất và trình độ của xã hội hoá sản xuất nước ta và đối với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Nhưng trên thực tế, điều này không mang lại hiệu quả như mong muốn, vì qhsx phải thích ứng với bản chất và mức năng suất là vi phạm pháp luật, để lại những hậu quả sau:

Xem thêm: Sản phẩm là gì? Các thuộc tính cơ bản của hàng hóa là gì?

Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ (nông dân, nghệ nhân, tiểu thương), sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là sự kết hợp tốt nhất giữa lao động và tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất được thực hiện nhanh chóng, tập thể dưới hình thức cá nhân và tập trung dưới hình thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, không kiểm soát được quá trình sản xuất, dựa vào sự lãnh đạo của htx, họ không phải là thực chủ sở hữu, dẫn đến việc bỏ tư liệu sản xuất, gây thiệt hại cho tập thể.

Thứ hai: Kinh tế quốc doanh được hình thành rộng rãi trong mọi tầng lớp xã hội. Về mặt pháp lý, tư liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu, có quyền kiểm soát, quyết định tư liệu sản xuất và sản phẩm sản xuất ra, nhưng trên thực tế, người lao động chỉ là người lao động. Tiền lương, hệ thống tiền lương chưa hợp lý và chưa phản ánh đúng mức độ đóng góp của mỗi người vào chất lượng lao động. Vì vậy, sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất và chủ sở hữu nó đã trở thành hình thức và đã bị bỏ rơi.Chính phủ (các bộ trưởng, các bộ có thẩm quyền) là đại diện chủ sở hữu có quyền thống trị, nhưng không có ai nắm quyền, và không có cơ chế thực thi trách nhiệm giải trình nên nhân viên thờ ơ với kết quả. hoạt động của tôi.

Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tác động tiêu cực của việc phân phối, chỉ một số người mới có quyền quyết định việc phân phối nguyên liệu, vật phẩm, đặc quyền.

Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo xã hội thúc đẩy kinh tế phát triển, thực chất là chúng ta đang vận dụng các quy luật để giữ cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Về kinh tế, đảng và nhà nước ta đang từng bước điều chỉnh mối quan hệ giữa vĩ mô và vi mô của sản xuất, đồng thời coi trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Điều này đã có tác động tích cực đến nền kinh tế của chúng tôi.

Một. Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay của nước ta

Nhìn thẳng vào sự thật, chúng ta có thể thấy trước đây do quá đề cao vai trò của quan hệ sản xuất, do hiểu chưa đúng về quan hệ sở hữu với các quan hệ khác và do quên mất nguyên tắc cơ bản. của đất nước tôi quá độ từ xã hội tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Việc nhầm lẫn giữa sở hữu công cộng với chủ nghĩa xã hội và nhầm lẫn giữa hợp tác hóa và tập thể hóa. Không thấy được những bước đi đều đặn trên con đường xã hội chủ nghĩa, Người tiến hành ngay công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân, thực chất là lấy đường lối “đẩy nhanh cải tạo xã hội”. sự phát triển của năng suất. Xác lập sở hữu công cộng thuần túy giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Quan điểm đặt quan hệ sản xuất lên hàng đầu, tạo ra diện tích lớn, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị phủ nhận. Sự phát triển này của lực lượng sản xuất xã hội mâu thuẫn với sự phân tích ở trên.

Nhưng trên thực tế, có sự mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và tính phù hợp kinh tế cần thiết cho sự hình thành và phát triển của lực lượng sản xuất mới do các hình thái kinh tế – xã hội bên ngoài áp đặt một cách chủ quan. Cần khắc phục những hiện tượng tiêu cực nêu trên về mặt này, thực tế là chúng ta chưa hoàn thành hết những nhiệm vụ mà chúng ta phải làm. Phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, khắc phục những khó khăn, tiêu cực về kinh tế. Thiết lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, luôn thúc đẩy sản xuất phát triển mang lại lợi ích kinh tế cao.

Trên cơ sở củng cố đỉnh cao kinh tế vào tay nhà nước cách mạng. Cho phép chủ nghĩa tư bản hồi sinh và phát triển, và luôn có thể được bán rộng rãi có lợi cho sự phát triển của sản xuất. Gần đây, một phóng viên nước ngoài đã phỏng vấn Tổng Bí thư Lê Gia Tường rằng: “Liệu một người có trình độ quân sự nhưng không có bằng kinh tế có thể thúc đẩy Việt Nam tiến lên không?” ông nói, ông nói, ông cũng khẳng định không chấp nhận việc Việt Nam đi theo con đường chủ quan của tư bản, nhưng không phải triệt tiêu tư bản ở Việt Nam mà vẫn thiết lập quan hệ với tư bản trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, từ đó cho phép sự phát triển của các ngành kinh tế. Chủ nghĩa tư bản là tỉnh táo. Các ý kiến ​​của Đại hội cũng nêu rõ không chỉ khôi phục chủ nghĩa tư bản tư nhân và thành phần kinh tế mà cần phát triển sâu rộng theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.

Xem thêm: Lý thuyết Lao động Hàng hóa của c. Gắn nhãn thị trường lao động Việt Nam

Nhưng điều quan trọng là phải hiểu vai trò của khu vực nhà nước trong thời kỳ quá độ. Để thực hiện được vai trò này, một mặt phải thông qua gương mẫu về năng suất, chất lượng và hiệu quả. thực hiện đầy đủ cho đất nước. Đối với chủ nghĩa tư bản tư nhân và thành phần kinh tế cá thể, thực hiện chính sách khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, đối với khu vực này của nền kinh tế, phải có những biện pháp để quan hệ sản xuất thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Bởi vì điều đó sẽ thực sự thúc đẩy lực lượng lao động.

Sự phát triển kinh tế của nước ta hiện nay chủ yếu tập trung vào hai lực lượng: Lực lượng sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh, thuộc thành phần kinh tế quốc doanh); và lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh- doanh nghiệp thuộc sở hữu (thường gọi là doanh nghiệp tư nhân).

Ông bà ta thường nói: Nếu bạn muốn bơi, bạn phải nhảy xuống nước. Trong “Nhiệm vụ của Ủy ban Giáo dục Chính trị và Chính sách Kinh tế Mới”, Lenin đã viết: “Tất cả các thành tựu chính trị của chính quyền Xô viết sẽ bị diệt vong, hoặc chúng phải được thực hiện tiết kiệm. Cơ sở này hiện không có. Đây là những gì chúng tôi muốn Công việc được thực hiện phù hợp với quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

c.Công nghiệp hóa trong sự nghiệp đổi mới ngày nay ở nước ta, theo tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, vận dụng tốt quy luật quan hệ sản xuất

Vấn đề công nghiệp hóa thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất, không tách rời tính biện chứng vốn có của phương thức sản xuất và có liên quan chặt chẽ với hiện đại hóa, trước hết phải xét dưới góc độ tư duy triết học. Trước khi đi vào công nghiệp hóa – hiện đại hóa, muốn đất nước thành công phải có tiềm lực kinh tế của con người, trong đó lao động là yếu tố quan trọng. Ngoài ra, quan hệ sản xuất phải hài hoà với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.

Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa với tiềm năng lực lượng lao động rất lớn, cần cù, thông minh, sáng tạo và giàu kinh nghiệm, nhưng công cụ còn thô sơ. Nguy cơ đất nước tụt hậu ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang thực hiện mạnh mẽ một số vấn đề của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước hết là trên cơ sở kết hợp cơ cấu sở hữu thường xuyên với cơ cấu kinh tế thường xuyên và cơ cấu xã hội có giai cấp. Để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh, chúng ta vừa phải đứng trước những thời cơ to lớn, vừa phải vượt qua những thử thách gian nan, song nội dung cơ bản của việc thực hiện vẫn là phải nắm vững thực chất và phát triển. trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, hiểu biết về quy luật quan hệ sản xuất.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button